THỊ TRƯỜNG VÀNG THẾ GIỚI GIẢM MẠNH, ĐỒNG DOLLAR PHỤC HỒI SAU NHỮNG CHỈ SỐ KINH TẾ CHO THẤY NỀN KINH TẾ MỸ KHÔNG LÚNG QUÁ SÂU VÀO “SUY THOÁI”.
Cụ thể, giá vàng giao ngay lúc kết thúc ngày 5/12 theo giờ Việt Nam giảm 1,2% xuống 1775,68 USD/oz, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 5 tháng 7 là 1809,91 USD/oz vào phiên buổi sáng cùng ngày. Giá vàng kỳ hạn tháng 2/2023 giảm 1,3% xuống còn 1786,90 USD/oz.
Trong phiên sáng nay, giá Vàng vẫn không cho thấy dấu hiệu khả quan. Hiện tại, mỗi oz Vàng trên sàn Quốc Tế có giá khoảng 1770,8 USD. Tức khi qui đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện hành thì mỗi lượng Vàng trên sàn Thế Giới có giá khoảng 51,57 triệu đồng (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước trong phiên hôm nay, tính trên mỗi lượng Vàng, hai thị trường hiện chênh nhau khoảng 15,48 triệu đồng.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.
Đồng Dollar Mỹ: Chỉ số Dollar index, chỉ số đo lường sức mạnh đồng USD với rổ các đồng tiền đối tác chủ chốt, trong phiên kết thúc ngày 5/12, tăng 0,65% lên 105,131 điểm.Hiện nay, chỉ số này đang ở mức 105,334 điểm.
Đồng Dollar Mỹ tăng 1,35% so với đồng yên lên 136,15 điểm, bật tăng từ mức thấp nhất 3,5 tháng chạm tới vào thứ Sáu (2/12), là 133,62 JPY; trong khi bảng Anh đạt mức cao nhất trong vòng hơn 5 tháng, là 1,2345 USD.
Đồng euro giảm 0,02% xuống còn 1,0538 USD, không xa mức 1,0585 USD trên thị trường châu Á, cao nhất kể từ ngày 28 tháng 6.
Đồng USD giảm 0,12% so với đồng franc Thụy Sĩ xuống 0,9346 USD/CHF, không xa so với mức thấp gần 8 tháng của ngày thứ Sáu (2/12), là 0,9326 USD.
Tuần trước, chỉ số Dollar index đã giảm 1,4%, và trong tháng 11/2022 giảm 5%, đánh dấu tháng giảm nhiều nhất kể từ 2010. Nhưng hiện tại, thị trường đang ngày càng tin rằng trong chính sách tiền tệ, thuật ngữ ‘xoay trục’ đã đi đúng hướng.
“Tôi nghĩ vấn đề về ‘lạm phát cao nhất, lãi suất cao nhất, đồng đô la cao nhất’ đang dần biến thành ‘sự dai dẳng của lạm phát, sự dai dẳng của lãi suất tăng trong thời gian dài hơn,” Jane Foley, chiến lược gia ngoại hối cấp cao của Rabobank, cho biết.
Trong khi đó, các nhà đầu tư dự báo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất thấp hơn so với những đợt tăng đến 0,75% vừa qua. Dù vậy, số liệu việc làm vẫn khá cao lại cho thấy Fed cũng có thể giữ nguyên nhịp tăng cao.
Tổ chức đầu tư Wells Fargo cho rằng, đợt giảm giá gần đây của đồng USD đã quá mức và không có nhiều khả năng xảy ra tiếp theo. Các đợt tăng lãi suất tiếp theo của Fed dù với tốc độ chậm hơn cũng sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với đồng bạc xanh vì chênh lệch lãi suất sẽ tiếp tục có lợi cho đồng tiền của Mỹ.
Thậm chí, Cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Lawrence Summers dự đoán Fed sẽ phải tăng lãi suất lên cao hơn so với dự đoán của thị trường hay chính các nhà hoạch định chính sách. Ông Summers, hiện là giáo sư tại Đại học Harvard, cho hay, Fed có thể kéo lãi suất lên mức 6% và đây là kịch bản mà chúng ta có thể nghĩ tới.
Theo ING, đợt giảm giá của USD đã chấm dứt, Fed sẽ duy trì quan điểm thắt chặt tiền tệ một cách tích cực, việc nới lỏng các hạn chế chống COVID của Trung Quốc có thể trở nên phức tạp và giá dầu khí có thể tăng trở lại.
Một yếu tố quan trọng khác tác động lên các thị trường vào thứ Hai vừa qua là Trung Quốc, nơi một số thành phố đã nới lỏng các hạn chế về COVID. Thông điệp chính thức về mức độ nguy hiểm của virus cũng đã thay đổi sau khi xảy ra các cuộc biểu tình liên quan đến chính sách “Zero COVID” của Chính phủ.
Tỷ giá hối đoái tiền tệ của Úc và New Zealand đạt mức cao nhất trong nhiều tháng sau khi có nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Quốc nới lỏng các chính sách chống đại dịch và dữ liệu bảng lương mạnh mẽ của Mỹ khiến không thể thay đổi kỳ vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất.
Các thương nhân hiện đang chờ quyết định lãi suất từ Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) vào thứ Ba. Nhiều người sẽ tìm kiếm các tín hiệu về việc EBA sắp tới sẽ tạm dừng tăng lãi suất, sau khi dữ liệu lạm phát tiêu dùng hàng tháng, công bố vào tuần trước, cho thấy lạm phát có thể đã đạt đỉnh.
Đồng đô la Úc tăng 0,8% lên 0,6849 USD, mức cao nhất kể từ giữa tháng 9. Tỷ giá cặp tiền này đang phải đối mặt với ngưỡng kháng cự ở mức 68,5 cent. Đồng đô la New Zealand tăng 0,4% ở mức 0,6436 USD, mức cao nhất kể từ tháng 8, sau khi kết thúc tuần trước với mức tăng 2,6%. Mức kháng cự hiện tại là khoảng 64,5 cent.
So với tiền Trung Quốc, Đồng đô la giảm xuống dưới 7,0 nhân dân tệ, mức thấp nhất trong vòng nhiều tháng, với đồng nhân dân tệ giao dịch trên thị trường quốc tế đạt mức cao nhất kể từ giữa tháng 9. Trong nước, nhân dân tệ kết thúc phiên ở mức 6,9588 CNY. Việc Bắc Kinh nới lỏng một số hạn chế nghiêm ngặt chống COVID-19 – có khả năng giúp thu hút dòng vốn nước ngoài mới – và kỳ vọng Fed sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất xuống mức thấp nhất trong gần 5 năm đã đẩy nhân dân tệ hồi phục rất nhanh.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.
Trong phiên đầu sáng ngày 6/12, tỷ giá trung tâm USD/VND tại Ngân hàng Nhà nước được niêm yết ở mức 23.658 VND mỗi USD, giảm 2 VND mỗi USD so với phiên giao dịch trước. Tỷ giá tham khảo đô la Mỹ tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước giữ ở mức 24.840 VND mỗi USD (bán ra).
Tỷ giá USD trong các Ngân hàng thương mại hôm nay hầu hết được điều chỉnh theo chiều giảm giá. Cụ thể, rạng sáng nay, tại Ngân hàng Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.760 – 24.070 VND mỗi USD, giảm 170 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
Ngân hàng BIDV giao dịch mua – bán USD ở mức 23.800 – 24.080 VND mỗi USD, cũng giảm 150 VND mỗi USD chiều mua vào và chiều bán ra. Ngân hàng ACB niêm yết giá USD ở mức 23.800 – 24.300 VND mỗi USD (mua – bán), giảm 150 VND mỗi USD chiều mua và giảm mạnh 500 VND mỗi USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
Cùng thời điểm trên, Ngân hàng Vietinbank niêm yết giao dịch mua – bán ở quanh mức 23.800 – 24.200 VND mỗi USD, giảm 150 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán. Tại TPBank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.650 – 24.300 VND mỗi USD, giảm 180 VND mỗi USD chiều mua và giảm 120 VND mỗi USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
Tại Ngân hàng SHBBank, giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.970 – 24.320 VND mỗi USD, giảm mạnh 400 VND mỗi USD chiều mua và giảm 320 VND mỗi USD chiều bán. Ngân hàng Techcombank, niêm yết giá USD ở mức 23.828 – 24.150 VND mỗi USD (mua – bán), giảm 150 VND mỗi USD chiều mua vào và giảm 140 VND mỗi USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Sáng nay, các ngoại tệ mạnh trong giỏ thanh toán quốc tế hầu hết được điều chỉnh theo chiều giảm giá. Cụ thể:
- Tỷ giá đồng Euro giảm 121 VND mỗi EUR chiều mua và giảm 127 VND mỗi EUR chiều bán so với mức niêm yết trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.575 – 25.950 VND mỗi EUR.
- Tỷ giá đồng bảng Anh cũng giảm 175 VND mỗi GBP chiều mua và giảm 182 VND mỗi GBP chiều bán, niêm yết tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 28.595 – 29.813 VND mỗi GBP.
- Tỷ giá đồng France Thụy Sĩ giảm 180 VND mỗi CHF chiều mua và giảm 187 VND mỗi CHF chiều bán so với mức niêm yết trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.929 – 25.991 VND mỗi CHF.
- Tỷ giá đồng Dollar Canada giảm 112 VND mỗi CAD chiều mua và giảm 116 VND mỗi CAD chiều bán, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 17.362 – 18.102 VND mỗi CAD.
- Tỷ giá Dollar Úc, cũng giảm 148 VND mỗi AUD chiều mua vào và giảm 154 VND mỗi AUD chiều bán ra so với mức niêm yết trước, tại Vietcombank giao dịch cùng thời điểm trên mua – bán ở quanh mức 15.848 – 16.523 VND mỗi AUD.
- Tỷ giá Yên Nhật hôm nay giảm 2 VND mỗi JPY chiều mua và chiều bán, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mốc 172 – 182 VND mỗi JPY.
CÁC ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG.
1/ CÁC CHỈ SỐ KINH TẾ MỸ VỪA CÔNG BỐ:
- Đơn đặt hàng nhà máy tăng 1% trong tháng 10 so với mức dự kiến là 0,7%.
Dữ liệu do Cục thống kê dân số Mỹ công bố hôm thứ 2 cho thấy các đơn đặt hàng mới về hàng hóa sản xuất, Đơn đặt hàng nhà máy, đã tăng 5,8 tỷ đô la, tương đương 1%, trong tháng 10 lên mức 556,6 tỷ đô la. Con số này nối tiếp mức tăng trưởng 0,3% của tháng 9 và đạt kết quả tốt hơn kỳ vọng của thị trường là tăng 0,7%.
“Các đơn đặt hàng mới cho hàng hóa lâu bền được sản xuất trong tháng 10, tăng 7 trong 8 tháng qua, thêm 3,0 tỷ đô la hay 1,1% lên mức 277,4 tỷ đô la, cao hơn so với mức tăng 1% được công bố trước đó”, bản công bố cho biết thêm.
- Chỉ số PMI dịch vụ của ISM cải thiện lên 56,5 điểm trong tháng 11 so với dự kiến là 53,1
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ của Mỹ đã tiếp tục mở rộng với tốc độ nhanh chóng trong tháng 11 với chỉ số PMI dịch vụ của ISM đã tăng từ mức 54,4 trong tháng 10 lên 56,5 trong tháng 11. Chỉ số này tốt hơn kỳ vọng của thị trường là 53,1.
Thành phần lạm phát của cuộc khảo sát, Chỉ số giá phải trả, đã giảm từ 70,7 xuống 70 so với ước tính của các nhà phân tích là 73,6. Chỉ số Việc làm đã tăng từ 49,1 lên 51,1 và Chỉ số Đơn đặt hàng Mới đã nhích nhẹ xuống 56 từ mức 56,5.
Nhận xét về dữ liệu, “dựa trên nhận xét từ các thành viên của Ủy ban Khảo sát Kinh doanh, công suất tăng lên và thời gian giao hàng ngắn hơn đã dẫn đến sự cải thiện liên tục trong chuỗi cung ứng và hiệu suất hậu cần” – Anthony Nieves, Chủ tịch Ủy ban Khảo sát Kinh doanh của Viện Dịch vụ Quản lý Cung ứng cho biết. “Một giai đoạn tài chính mới và kỳ nghỉ lễ đã góp phần vào hoạt động kinh doanh mạnh mẽ hơn và việc làm tăng.”
- Giá phải trả ngành dịch vụ từ ISM đạt 70 thấp hơn dự đoán (73.6) trong tháng 11.
- Chỉ số Đơn đặt hàng mới ngành dịch vụ từ ISM thấp hơn dự đoán (58.5) trong tháng 11: Thực tế (56).
- Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) dịch vụ từ Viện Quản lý Cung ứng ISM đạt 56.5 vượt mức mong đợi (53.1) trong tháng 11.
- Đơn đặt hàng từ Nhà máy (so với tháng trước) vượt mức dự đoán (0.7%) trong tháng 11: Thực tế (1%).
- Chỉ số việc làm dịch vụ ISM đạt 51.5, vượt mức dự đoán (51) trong tháng 11.
- PMI Tổng hợp từ S&P Global đạt 46.4 vượt mức mong đợi (46.3) trong tháng 11.
- PMI Dịch vụ từ S&P Global vượt mức mong đợi (46.1) trong tháng 11: Thực tế (46.2).
=> CÁC CHỈ SỐ KINH TẾ ĐẠT HOẶC VƯỢT KÌ VỌNG CHÍNH LÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH DẪN ĐẾN SỰ HỒI PHỤC CỦA ĐỒNG DOLLAR MỸ VÀ SỰ SUY YẾU CỦA VÀNG TRONG PHIÊN HÔM QUA KHI CÒN NHIỀU NHÀ ĐẦU TƯ KÌ VỌNG FED SẼ NÂNG TỪ 50-75 ĐIỂM CƠ BẢN TRONG CUỘC HỌP FOMC SẮP TỚI.
2/ Theo TTXVFitch hạ dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2023 xuống 1,4% | baotintuc.vn– Fitch hạ dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2023 xuống 1,4%.
Theo phóng viên TTXVN tại châu Âu, ngày 5/12, Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings đã hạ dự báo tăng trưởng Tổng Sản phẩm Quốc nội (GDP) toàn cầu năm 2023 xuống 1,4% từ mức 1,7% trước đó.
Báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu (GEO) của Fitch Rating có đoạn: “Dự báo GDP toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh giảm một lần nữa khi các ngân hàng trung ương đẩy mạnh cuộc chiến chống lạm phát và triển vọng thị trường bất động sản Trung Quốc xấu đi”.
Fitch cũng giảm dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ năm 2023 từ mức 0,5% xuống còn 0,2% “bởi tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ gia tăng”. Dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2023 cũng giảm từ 4,5% xuống còn 4,1% do “triển vọng phục hồi xây dựng nhà ở suy yếu”. Dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2022 vẫn ở mức 2,8% “do các ca nhiễm COVID-19 gia tăng gây áp lực lên các hoạt động trong ngắn hạn”.
Dự báo tăng trưởng của khu vực đồng euro (Eurozone) năm 2023 đã được điều chỉnh tăng từ mức 0,1% lên 0,2% do cuộc khủng hoảng khí đốt ở châu Âu dịu bớt, song việc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tăng lãi suất mạnh hơn sẽ gây áp lực lên nhu cầu. Fitch Ratings cho rằng nguy cơ thiếu hụt khí đốt tự nhiên ở châu Âu trong mùa Đông này đã giảm xuống do nhập khẩu khí đốt hoá lỏng (LNG) tăng và tiêu thụ khí đốt giảm. Ngoài ra, lạm phát thời gian gần đây ở khu vực đồng euro và Anh đã đạt 11%, và lạm phát cơ bản đã đang tăng lên. Fitch Ratings ước tính lạm phát chung sẽ giảm đáng kể vào năm 2023 khi giá lương thực và năng lượng ổn định.
Báo cáo của Fitch Ratings cũng dự đoán lãi suất cơ bản do Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) ấn định sẽ đạt đỉnh ở mức 5% và trong trường hợp của ECB là 3%.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhận định quan hệ giữa EU – Mỹ bị “mất đồng bộ” khi đồng minh Bắc Mỹ bán khí đốt cao gấp sáu lần giá gốc cho châu Âu.
“Tôi cho rằng chính quyền Mỹ và cá nhân Tổng thống Biden rất gắn bó với châu Âu. Nhưng nếu xét về tình hình ngày nay, hai bên thực sự không đồng bộ. Vấn đề nằm ở chỗ giá năng lượng. Châu Âu là bên mua khí đốt và dầu mỏ. Mỹ lại là nhà sản xuất”, ông Macron phát biểu với truyền thông Mỹ.
Tổng thống Pháp lưu ý việc các khách hàng ở Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đang mua khí đốt với mức giá khác nhau đã tạo ra sự chênh lệch lớn, tác động đến sức mua cùng với khả năng cạnh tranh ở các nước đồng minh. Điều này thậm chí còn gây thêm gánh nặng lên các ngành công nghiệp và các hộ gia đình ở châu Âu.
“Sau khi cắt giảm đáng kể khí đốt tự nhiên của Nga, châu Âu đang mua nhiều hơn từ Mỹ, nhưng với mức giá cao gấp sáu lần những gì người Mỹ phải trả. Điều này xảy ra vào thời điểm lạm phát và thất nghiệp ở Pháp dao động quanh mức 7%”, ông Macron nói thêm.
Đề cập đến tình hình ở Ukraine, nhà lãnh đạo Pháp nhấn mạnh rằng châu Âu và Mỹ tham gia vào cuộc xung đột này dựa trên lập trường giống nhau, nhưng cái giá phải trả cho sự can dự này là khác nhau ở cả hai bờ Đại Tây Dương.
Tổng thống Emmanuel Macron vừa có chuyến thăm chính thức Mỹ từ ngày 29/11 đến ngày 2/12. Ông đã gặp người đồng cấp Mỹ Joe Biden tại Washington hôm 1/12 để thảo luận về tình hình ở Ukraine, tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, năng lượng và vũ trụ.
Sau khi Nga bắt đầu chiến dịch quân sự ở Ukraine vào tháng 2/2022, EU đã áp dụng một số gói trừng phạt chống lại Moskva, cũng như cam kết chấm dứt sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng của Nga.
Hoạt động của nền kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã giảm liên tiếp trong 5 tháng tính đến tháng 11/2022, báo hiệu nguy cơ kinh tế khu vực rơi vào suy thoái trong bối cảnh người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu do lạm phát tăng vọt.
Theo dữ liệu do S&P Global mới công bố, chỉ số quản lý nhà mua hàng (PMI) của Eurozone tăng từ mức 47,3 trong tháng 10 – mức thấp nhất trong 23 tháng – lên 47,8 trong tháng 11.
Dù tăng nhưng chỉ số này vẫn dưới ngưỡng 50, thể hiện hoạt động kinh tế tiếp tục giảm tháng thứ 5 liên tiếp.
[Lạm phát ở Eurozone giảm lần đầu tiên trong 17 tháng]Nhà kinh tế trưởng của S&P Chris Williamson cảnh báo hoạt động kinh doanh tháng 11 tiếp tục giảm làm gia tăng nguy cơ kinh tế Eurozone rơi vào suy thoái.
Tuy nhiên, ông Williamson đánh giá suy thoái chỉ ở mức nhẹ, với dự báo tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sẽ giảm khoảng 0,2%.
Theo kết quả thăm dò do Reuters tiến hành tháng trước, các chuyên gia kinh tế cho rằng khoảng 78% khả năng kinh tế khu vực sẽ rơi vào suy thoái trong 1 năm.
Các chuyên gia dự đoán nền kinh tế sẽ giảm 0,4% trong quý này.
Nhu cầu về lao động giảm được phản ánh qua việc chỉ số lao động giảm từ 52,5 xuống còn 51,8, trong khi tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 6,5% trong tháng 10.
PMI ngành dịch vụ then chốt của EuroZone cũng giảm từ 48,6 xuống 48,5, đánh dấu mức PMI thấp nhất kể từ năm 2021.
Tuy nhiên, chỉ số giá đầu vào và đầu ra đều giảm cho thấy áp lực lạm phát có thể đã lên đến đỉnh điểm, báo hiệu khả năng các nhà hoạch định chính sách của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ sớm đưa ra những điều chỉnh. Chỉ số giá đầu ra đang ở mức thấp nhất trong 3 tháng là 62,3.
Dữ liệu sơ bộ chính thức cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Eurozone trong tháng 11 tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, vẫn cao gấp 5 lần so với mục tiêu 2% mà ECB đưa ra.
ECB đã áp dụng biện pháp tăng lãi suất để “hạ nhiệt” giá cả và dự kiến sẽ tăng 50 điểm cơ bản nữa vào cuối tháng này.
Theo ông Williamson, nhiều cuộc khảo sát cho thấy lạm phát ở khu vực này có thể đã đến mức đỉnh điểm, theo đó nhu cầu tăng giá cũng sẽ giảm dần trong những tháng tới.
Ông Williamson đánh giá các cuộc suy thoái sẽ chỉ xảy ra trong thời gian nhất định và ở mức tương đối nhẹ./.