TIN TỨC ĐẦU TƯ VÀNG 28/12

THỊ TRƯỜNG VÀNG BIẾN ĐỘNG THẤT THƯỜNG DO TÂM LÍ CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ HỖN LOẠN.

Cụ thể, khi kết thúc phiên giao dịch ngày 27/12, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1806,69 USD/oz; vàng kỳ hạn tháng 2/2023 tăng 0,7% lên 1816,70 USD/oz.

Trong phiên giao dịch hôm nay, thị trường Vàng dao động thất thường. Trong phiên hiện nay, mỗi oz Vàng trên sàn Thế Giới niêm yết ở mức khoảng 1804 USD. Tức khi qui đổi tương đương theo tỉ giá ngoại tệ hiện hành thì mỗi lượng Vàng trên sàn Thế Giới có giá khoảng 51,848 triệu VND (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước trong phiên hiện nay, tính trên một lượng Vàng, hai thị trường hiện chênh nhau khoảng 14,85 triệu VND.

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.

Đồng Dollar Mỹ: Chỉ số Dollar index – so sánh USD với rổ các đồng tiền đối tác chủ chốt – lúc kết thúc ngày 27/12 theo giờ Việt Nam tăng 0,134% lên 104,220.

Có một sự bất thường là trong khi USD – đồng tiền trú ẩn an toàn – tăng giá thì đồng đô la Úc – đại diện cho các tiền tệ rủi ro – cũng tăng 0,22% so với đồng bạc xanh lên 0,674 USD, trong khi đô la New Zealand tăng lúc đầu phiên nhưng sau đó giảm 0,14% xuống còn 0,629 đô la. Hai loại tiền tệ này thường có biến động cùng chiều với đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Trong phiên vừa qua, nhân dân tệ Trung Quốc giao dịch ở nước ngoài có giá giảm 0,12% xuống 6,9661 CNH/USD.

Marc Chandler, chiến lược gia trưởng phụ trách thị trường của Bannockburn Global Forex, cho biết: “Chúng ta đang ở trong một phạm vi giao dịch rất hẹp và tôi nghĩ với việc đồng đô la tăng giá so với đồng euro và đồng yên, chúng ta có thể sẽ thấy đồng đô la tăng giá hơn nữa so với đồng tiền của Trung Quốc”.

Tuy nhiên, các nhà đầu tư cũng kỳ vọng “quyết tâm mở cửa trở lại hoàn toàn của các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc” sẽ thúc đẩy nhân dân tệ tăng giá, Christopher Wong, chiến lược gia tiền tệ thuộc OCBC, cho biết.

“Dường như tốc độ nới lỏng các hạn chế chống COVID không hề có dấu hiệu chậm lại bất chấp số ca nhiễm COVID ở Trung Quốc đại lục đang gia tăng.”

Ở những nơi khác trên thế giới, đồng euro giảm 0,08% so với đồng đô la xuống còn 1,0626 USD/EUR.

Tuy nhiên, việc Trung Quốc dần dần dỡ bỏ các chính sách không chống COVID – đã từng ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế – có thể sẽ giúp đẩy tăng giá trị đồng euro – vốn đã tăng nhờ Ngân hàng Trung ương châu Âu áp dụng chính sách chống lại lạm phát cứng rắn hơn nhiều so với dự kiến của các nhà đầu tư.

Với việc các thị trường ở Vương quốc Anh đóng cửa nghỉ lễ, giao dịch bảng Anh gần như không có trong phiên vừa qua, khiến đồng bảng giảm so với đồng đô la xuống mức khoảng 1,2022 USD.

Dữ liệu được công bố vào thứ Sáu tuần trước cho thấy chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ trong tháng 11 hầu như không tăng, trong khi lạm phát tiếp tục hạ nhiệt, củng cố kỳ vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang có thể thu hẹp quy mô thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh mẽ của mình.

Dữ liệu cho thấy người tiêu dùng Mỹ hy vọng áp lực giá cả sẽ giảm đáng kể trong năm tới, với một cuộc khảo sát cho thấy lạm phát trong tháng 12 ước tính giảm xuống mức thấp nhất trong 18 tháng. Đây là con số quan trọng mà Chủ tịch Fed Jerome Powell đã đề cập trong một cuộc họp báo của mình.

Chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ tháng 11/2022 đã tăng 0,1%, thấp hơn đáng kể tăng 0,4% trong tháng 10. Trong 12 tháng tính đến tháng 11, chỉ số PCE của Mỹ tăng 5,5%, cũng giảm so với mức tăng 6,1% của 12 tháng tính đến tháng 10/2022.

Loại trừ các thành phần năng lượng và thực phẩm dễ biến động thì chỉ số PCE tháng 11 tăng 0,2% sau khi tăng 0,3% trong tháng 10. Chỉ số PCE cốt lõi đã tăng 4,7% trong tháng 11 so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi tăng 5% trong tháng 10. Fed theo dõi sát các chỉ số giá PCE để đưa ra quyết định về chính sách tiền tệ của mình trong thời gian tiếp theo.

Một dữ liệu khác cho thấy số đơn đặt hàng mới đối với tư liệu sản xuất do Mỹ sản xuất đã tăng vừa phải trong tháng 11/2022, trong khi nhập khẩu cũng giảm, cho thấy chi tiêu kinh doanh cho thiết bị trong quý này chậm lại do chi phí vay cao tăng làm giảm nhu cầu đối với hàng hóa.

Dữ liệu cũng cho thấy các đơn đặt hàng tư liệu sản xuất phi quốc phòng không bao gồm máy bay, một chỉ báo được theo dõi chặt chẽ cho các kế hoạch chi tiêu kinh doanh, đã tăng 0,2% trong tháng 11/2922.

Chiến lược gia Francesco Pesole của ING FX cho biết: “Theo xu hướng mang tính chất mùa vụ thì đồng bạc xanh thường yếu đi trong tháng 12”. “Có một điều đáng nhớ là đồng đô la trong bốn năm qua đều tăng vào tháng Giêng. Quan điểm của chúng tôi về đầu năm 2023 vẫn là đồng đô la phục hồi.”

Đồng yên Nhật giảm 0,44% so với đồng đô la xuống 133,45 JPY, mặc dù lợi suất trái phiếu chính phủ ngắn hạn của Nhật tăng vọt lên mức cao nhất trong hơn 7 năm rưỡi. Mặc dù giảm trong phiên này nhưng đồng yen đang hướng đến quý 4 phục hồi mạnh mẽ nhất so với USD kể từ 2008, với mức tăng 8,1%, sau quyết định bất ngờ vào tuần trước của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) nhằm điều chỉnh chính sách tiền tệ của mình.

Thống đốc BOJ Haruhiko Kuroda hôm 26/12 đã bác bỏ khả năng kết thúc nhanh chóng chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo của mình, ngay cả khi thị trường và các nhà hoạch định chính sách đang nhận thấy ngày càng có dấu hiệu rằng sẽ có những thay đổi xảy ra sau khi nhiệm kỳ của ông Kuroda kết thúc vào tháng 4 năm sau.

Các nhà phân tích của Wells Fargo cho biết: “Mặc dù việc điều chỉnh chính sách đã làm tăng thêm sự không chắc chắn về triển vọng chính sách của BOJ, nhưng chúng tôi tiếp tục nghiêng về phía các nhà hoạch định chính sách của BOJ sẽ không thực hiện thêm điều chỉnh chính sách nào cho đến cuối năm 2023”. Theo đó “Áp lực lạm phát dự kiến sẽ giảm bớt, điều này sẽ làm giảm động lực của BOJ đối với các động thái chính sách tiếp theo.”Đồng rúp Nga phiên vừa qua giảm mạnh, khoảng 3% so với USD, do thị trường phải đối mặt với triển vọng doanh thu xuất khẩu của Nga giảm do các hạn chế đối với mặt hàng dầu mỏ của nước này.

Đồng rúp đã mất giá khoảng 8% so với đồng đô la vào tuần trước và sắp kết thúc tháng giảm mạnh sau khi lệnh cấm vận dầu mỏ và trần giá có hiệu lực.

Kết thúc phiên 27/12, rúp Nga giảm hơn 3% xuống 71,36 RUB/USD, quay trở lại mức thấp nhất trong gần 8 tháng là 72,6325 chạm tới vào tuần trước.

Hầu hết các tiền tệ châu Á đều tăng sau khi Trung Quốc nới lỏng các biện pháp chống COVID. Moh Siong Sim, chiến lược gia ngoại hối của Ngân hàng Singapore cho biết: “Chúng tôi đã thấy một số đồng tiền châu Á tăng giá do Trung Quốc mở cửa trở lại.

Đồng won Hàn Quốc và chỉ số chứng khoán của nước này tăng lần lượt 0,6% và 0,5% so với phiên liền trước.

Đồng đô la Singapore, baht Thái Lan và đồng ringgit Malaysia đồng loạt tăng từ 0,1% đến 0,2%.

Tính chung trong năm 2022, đồng đô la Singapore là đồng tiền châu Á duy nhất ghi nhận mức tăng giá, trong khi hầu hết các đồng tiền cùng loại đã giảm hơn 5% từ đầu năm đến nay.

Tuy nhiên, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc sau khi tăng lúc đầu phiên đã giảm trở lại vào cuối phiên, ở mức 6,9620 CNY/USD, sau khi dữ liệu cho thấy lợi nhuận tại các công ty công nghiệp của Trung Quốc tiếp tục giảm trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 11 do các hạn chế nghiêm ngặt về COVID-19.

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.

Tỷ giá USD sáng nay (28/12), thị trường tự do tiếp tục giảm sâu so với phiên trước, mất mốc 24.000 đồng/USD. Các ngân hàng thương mại vẫn điều chỉnh trái chiều nhau. Tỷ giá trung tâm có phiên thứ 7 giảm liên tục.

Tỷ giá trung tâm cặp đồng tiền VND/USD được Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong ngày 28/12 ở mức 23.620 đồng, giảm 4 đồng so với mức công bố trước.

Tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại tiếp tục điều chỉnh trái chiều nhau. Cụ thể, lúc 8 giờ 53 phút, Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.420 – 23.770 đồng/USD, giảm 10 đồng/USD cả chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.

BIDV niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.465 – 23.745 đồng/USD, tăng 10 đồng/USD chiều mua và đi ngang chiều bán ra so với mức niêm yết trước.

Techcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.444 – 23.780 đồng/USD, giữ giá chiều mua vào và tăng 10 đồng/USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.

Eximbank niêm yết giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.450 – 23.720 đồng/USD, giảm 10 đồng/USD chiều mua và giảm 20 đồng/USD chiều bán so với mức niêm yết trước.

Tỷ giá USD trên thị trường tự do sáng nay vẫn trong xu hướng giảm so với phiên trước. Tại thị trường Hà Nội, lúc 8 giờ 55 phút, đồng USD giao dịch (mua – bán) ở quanh mức 23.863 – 23.913 đồng/USD, giảm 27 đồng/USD chiều mua và chiều bán ra so với phiên trước.

Đồng USD trên thị trường thế giới, cũng tiếp tục giảm trong giỏ thanh toán quốc tế. Cụ thể, chỉ số Dollar-Index – đo lường sức mạnh đồng USD trong giỏ 6 đồng tiền chủ chốt sáng nay giảm 0,1% về mức 103.905 điểm, vào lúc 7 giờ 55 phút (giờ Hà Nội).

 

Tỷ giá các ngoại tệ mạnh khác trong giỏ thanh toán quốc tế tại Vietcombank hôm nay vẫn diễn biến trái chiều nhau trong biên độ hẹp, chỉ có bảng Anh giảm mạnh.

Cụ thể, tỷ giá đồng EUR đảo chiều giảm 27 đồng/EUR chiều mua và giảm 30 đồng/EUR chiều bán ra so với phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank quanh mức 24.431 – 25.798 đồng/EUR.

Đồng bảng Anh đảo chiều giảm mạnh 158 đồng/GBP chiều mua và giảm 165 đồng/GBP chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 27.611 – 28.788 đồng/GBP.

Tỷ giá đồng france Thụy Sĩ, tăng 34 đồng/CHF chiều mua và tăng 36 đồng/CHF chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.719 – 25.773 đồng/CHF.

Đồng đô la Canada, tăng 24 đồng/CAD chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank ở quanh mức 16.987 – 17.711 đồng/CAD.

Tỷ giá đô la Úc, đảo chiều giảm 44 đồng/AUD chiều mua và giảm 46 đồng/AUD chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 15.451 – 16.110 đồng/AUD.

Tỷ giá yên Nhật giảm 1 đồng chiều mua và giảm 2 đồng chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán quanh mốc 161 – 171 đồng/JPY.

BẢN TIN ĐẦU TƯ.

1/ CÁC CHỈ SỐ KINH TẾ MỸ VỪA CÔNG BỐ: 

  1. Chỉ số Điều kiện Sản xuất của Fed chi nhánh Dallas giảm xuống -18.8 trong Tháng Mười Hai từ mức -14.4 trước đó.
  2. Chỉ số giá nhà đất giữ ổn định trong tháng 10 so với mức +0,8% dự kiến 

    Giá nhà ở Mỹ không thay đổi so với tháng trước trong tháng 10, dữ liệu hàng tháng do Cơ quan Tài chính Nhà ở Liên bang Mỹ công bố hôm thứ 3 cho thấy. Dữ liệu này thấp hơn mức kỳ vọng của thị trường là tăng 0,8%.

    Trong khi đó, Chỉ số giá nhà ở của S&P/Case-Shiller đạt 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái vào tháng 10, từ ước tính của các nhà phân tích là 10,4%.

     

  3. Thâm hụt thương mại quốc tế giảm xuống 83,3 tỷ đô la trong tháng 11 

    Dữ liệu do Cục thống kê dân số Mỹ công bố hôm thứ 3 cho thấy thâm hụt lãi suất quốc tế của Mỹ đã giảm 15,5 tỷ đô la xuống còn 83,3 tỷ đô la trong tháng 11 từ mức 98,8 tỷ đô la trong tháng 10.

    “Xuất khẩu hàng hóa trong tháng 11 là 168,9 tỷ đô la, thấp hơn 5,3 tỷ đô la so với xuất khẩu của tháng 10”, bản công bố cho biết thêm. “Nhập khẩu hàng hóa trong tháng 11 là 252,2 tỷ đô la, thấp hơn 20,8 tỷ đô la so với nhập khẩu tháng 10.”

     

2/ Theo Đồng ruble của Nga tiếp tục suy yếu do các lệnh trừng phạt | Tài chính | Vietnam+ (VietnamPlus)

Đồng ruble của Nga tiếp tục suy yếu do các lệnh trừng phạt

Phiên 28/12, đồng ruble đã giảm hơn 1,1% so với đồng USD, giao dịch ở mức 71,19 ruble đổi 1 USD và hướng đến mức thấp nhất trong gần tám tháng là 72,6325 ruble đổi 1 USD ghi nhận trong tuần trước.
Dong ruble cua Nga tiep tuc suy yeu do cac lenh trung phat hinh anh 1Đồng ruble của Nga. (Ảnh: THX/TTXVN)

Đồng ruble của Nga suy yếu trong phiên ngày 28/12, trượt qua mức 71 ruble đổi 1 USD, do các lệnh trừng phạt lên dầu Nga và những tác động của nó đối với doanh thu xuất khẩu gây sức ép lên đồng nội tệ Nga.

Đồng ruble đã mất khoảng 8% giá trị so với đồng USD trong tuần trước và đang trên đà giảm mạnh tính theo tháng sau khi lệnh cấm vận dầu mỏ và mức giá trần có hiệu lực. Bộ Tài chính Nga cho hay sự mất giá của đồng ruble gần đây liên quan đến việc phục hồi nhập khẩu.

Phiên 28/12, đồng ruble đã giảm hơn 1,1% so với đồng USD, giao dịch ở mức 71,19 ruble đổi 1 USD, và hướng đến mức thấp nhất trong gần tám tháng là 72,6325 ruble đổi 1 USD ghi nhận được trong tuần trước.

Đồng nội tệ Nga giảm 0,5% so với đồng euro, giao dịch ở mức 75,37 ruble đổi 1 euro, và giảm 1,4% so với đồng nhân dân tệ, giao dịch ở mức 10,12 ruble đổi 1 nhân dân tệ.

[Đồng ruble của Nga giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tháng]

Đồng ruble có khả năng biến động mạnh trong bối cảnh hoạt động giao dịch thưa thớt trước kỳ nghỉ lễ Năm mới của Nga.

Olga Yangol, trưởng bộ phận nghiên cứu thị trường mới nổi và chiến lược cho châu Mỹ tại Credit Agricole CIB, cho biết các biện pháp trừng phạt mới được áp đặt của phương Tây đã góp phần khiến giá năng lượng giảm gần đây, điều này chắc chắn đang gây áp lực lên đồng ruble.

Tuy nhiên, ông Yangol nói thêm đồng ruble sẽ tương đối ổn định trong tương lai, với dự đoán căng thẳng địa chính trị sẽ thúc đẩy giá dầu, cùng với việc Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, tiếp tục cắt giảm sản lượng để đáp ứng các nguyên tắc cơ bản của thị trường. Giá dầu Brent đã giảm 0,7% xuống 83,7 USD/thùng.

Tổng thống Vladimir Putin ngày 27/12 đưa ra hành động đáp trả đối với biện pháp áp trần giá dầu của phương Tây khi ký sắc lệnh cấm bán dầu và các sản phẩm từ dầu cho các nước áp dụng mức giá trần đối với dầu Nga từ ngày 1/2./.

Minh Hằng (TTXVN/Vietnam+)

Các ngân hàng TW thực hiện đợt tăng lãi suất lịch sử trong năm 2022

Một tính toán của hãng tin Reuters cho thấy các ngân hàng trung ương giám sát 10 loại tiền tệ phổ biến nhất thế giới đã tăng tổng cộng 2.700 điểm cơ bản trong 54 lần tăng lãi suất trong 12 tháng qua.
Cac ngan hang TW thuc hien dot tang lai suat lich su trong nam 2022 hinh anh 1Trụ sở Ngân hàng trung ương Nhật Bản ở Tokyo. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Các ngân hàng trung ương lớn đã tiến hành đợt tăng lãi suất với tốc độ nhanh nhất và quy mô lớn nhất trong ít nhất hai thập kỷ vào năm 2022, khi các nhà hoạch định chính sách nỗ lực kiềm chế lạm phát gia tăng.

Một tính toán của hãng tin Reuters (Anh) cho thấy các ngân hàng trung ương giám sát 10 loại tiền tệ phổ biến nhất đã tăng tổng cộng 2.700 điểm cơ bản trong 54 lần tăng lãi suất trong 12 tháng qua.

Tất cả các ngân hàng trung ương lớn – ngoại trừ Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) – đều tăng lãi suất trong năm nay, mặc dù các nhà hoạch định chính sách ở Tokyo đã bất ngờ khuấy động thị trường vào tháng 12 với điệc điều chỉnh mục tiêu lợi suất.

Điều này làm dấy lên suy đoán rằng việc BoJ tăng lãi suất thực tế có thể xảy ra trong tương lai không xa.

Trong khi đó, có nhiều bằng chứng cho thấy chu kỳ thắt chặt tại các thị trường mới nổi đang chậm lại.

5 trong số 18 ngân hàng trung ương các thị trường mới nổi đã thực hiện tăng lãi suất tổng cộng 260 điểm cơ bản trong tháng 12, giảm từ 400 điểm cơ bản trong tháng 11 và thấp hơn đáng kể so với mức tăng hơn 800 điểm cơ bản hàng tháng trong tháng Sáu và tháng Bảy.

[Italy cảnh báo về tác động do quyết định tăng lãi suất mới của ECB]

Phần lớn mức tăng đó đến từ các nhà hoạch định chính sách ở châu Á, những nước đang “chậm chân” so với chu kỳ thắt chặt của khu vực Mỹ Latinh và châu Âu mới nổi. Các ngân hàng trung ương ở Indonesia, Ấn Độ và Philippines đã tăng lãi suất trong tháng này, cùng với Colombia và Mexico.

Ông Charles-Henry Moncheau, Giám đốc văn phòng đầu tư của tập đoàn tài chính Syz Group, nhận định hầu hết các ngân hàng trung ương tại các thị trường mới nổi sắp hoàn thành chu kỳ tăng lãi suất của họ.

Các ngân hàng trung ương này đã tăng lãi suất tổng cộng 93 lần và nâng lãi suất chuẩn thêm tổng cộng 7.425 điểm cơ bản trong năm nay, gần gấp ba lần so với mức giảm tổng cộng 2.745 điểm cơ bản vào năm 2021./.

H.Thủy (TTXVN/Vietnam+)
LỊCH KINH TẾ HÔM NAY.
28/12/2022
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x