THỊ TRƯỜNG VÀNG ĐIỀU CHỈNH VỀ MỨC CŨ KHI GDP MỸ ĐƯỢC CÔNG BỐ.
Cụ thể, trong phiên giao dịch kết thúc ngày 22/12, hợp VND mỗi vàng giao ngay lùi 1.3% xuống 1791.47 USD/oz. Hợp VND mỗi vàng tương lai mất 1.4% còn 1799.4 USD/oz.
Trong phiên giao dịch hôm nay, thị trường Vàng tiếp tục điều chỉnh. Cụ thể, trong phiên hiện nay, mỗi oz Vàng trên sàn Thế Giới niêm yết ở mức khoảng 1795 USD. Tức khi qui đổi tương đương theo tỉ giá ngoại tệ hiện hành thì mỗi lượng Vàng trên sàn Thế Giới có giá khoảng 51,7 triệu VND mỗi (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước trong phiên hiện nay, tính trên một lượng Vàng, hai thị trường hiện chênh nhau khoảng 15 triệu VND.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.
Tỷ giá USD hôm nay đã tiếp đà tăng nhẹ sau khi Mỹ công bố dữ liệu kinh tế mới, cho thấy tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế nước này, đồng thời thúc đẩy Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục lộ trình tăng lãi suất trong thời gian tới.
Cụ thể, số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới tại Mỹ tăng ít hơn so với dự kiến vào tuần trước. Khả năng phục hồi của thị trường lao động hậu thuẫn cho lộ trình thắt chặt chính sách “diều hâu” của Ngân hàng trung ương Mỹ trong tương lai gần, với việc Fed dự kiến chi phí đi vay sẽ tăng thêm ít nhất 75 điểm cơ bản vào cuối năm 2023.
Trong khi đó, trong quý thứ III, nền kinh tế nước này cũng phục hồi nhanh hơn so ước tính trước đó.
Giám đốc chiến lược thị trường tại công ty thanh toán kinh doanh Corpay Karl Schamotta nhận định: “Vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy việc tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang đã đẩy nền kinh tế vào tình trạng suy thoái, điều mà các nhà hoạch định chính sách đã từng dự đoán”.
Trong khi đó, đồng đô la giảm 0,1% so với đồng yên Nhật, ở mức 132,32 yên, tiến sát về mức thấp nhất trong 4 tháng, sau “pha” điều chỉnh chính sách bất ngờ từ Ngân hàng trung ương Nhật Bản, thúc đẩy kỳ vọng vào việc đồng yên sẽ tăng giá trở lại.
Đồng Euro cũng giảm 0,1% so với đồng đô la, hiện ở mức 1,0595 USD, sau khi tăng cao tới 0,5% vào đầu phiên giao dịch.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.
Tỷ giá trung tâm cặp đồng tiền VND/USD được Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong ngày 23/12 ở mức 23.631 đồng, giảm 5 đồng so với mức công bố trước.
Tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại đảo chiều giảm mạnh so với mức niêm yết trước. Cụ thể, lúc 8 giờ 58 phút, Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.490 – 23.800 VND mỗi USD, giảm mạnh 70 VND mỗi USD cả chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
BIDV niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.500 – 23.780 VND mỗi USD, giảm mạnh 85 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Techcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.499 – 23.810 VND mỗi USD, giảm mạnh 50 VND mỗi USD chiều mua vào và giảm 40 VND mỗi USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Eximbank niêm yết giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.510 – 23.790 VND mỗi USD, giảm mạnh 160 VND mỗi USD chiều mua và giảm mạnh 40 VND mỗi USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
Tỷ giá USD trên thị trường tự do sáng nay bật tăng so với phiên trước. Tại thị trường Hà Nội, lúc 9 giờ 2 phút, đồng USD giao dịch (mua – bán) ở quanh mức 23.962 – 24.062 VND mỗi USD, tăng 22 VND mỗi USD chiều mua và tăng 52 VND mỗi USD chiều bán ra so với phiên trước.
Tỷ giá các ngoại tệ mạnh khác trong giỏ thanh toán quốc tế tại Vietcombank hôm nay đồng loạt giảm mạnh, sau khi đồng USD trên thị trường quốc tế tăng.
Cụ thể, tỷ giá đồng EUR tiếp tục giảm 95 VND mỗi EUR chiều mua và giảm 99 VND mỗi EUR chiều bán ra so với phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank quanh mức 24.426 – 25.793 VND mỗi EUR.
Đồng bảng Anh, tiếp tục giảm mạnh 197 VND mỗi GBP chiều mua và giảm 206 VND mỗi GBP chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 27.739 – 28.921 VND mỗi GBP.
Tỷ giá đồng france Thụy Sĩ, tiếp tục giảm mạnh 215 VND mỗi CHF chiều mua và giảm 224 VND mỗi CHF chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.753 – 25.808 VND mỗi CHF.
Đồng đô la Canada, giảm mạnh 92 VND mỗi CAD chiều mua và giảm 97 VND mỗi CAD chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank ở quanh mức 16.899 – 17.619 VND mỗi CAD.
Tỷ giá đô la Úc, đảo chiều giảm mạnh 213 VND mỗi AUD chiều mua và giảm 171 VND mỗi AUD chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 15.371 – 16.026 VND mỗi AUD.
Tỷ giá Yên Nhật giảm 1 đồng chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán quanh mốc 163 – 173 VND mỗi JPY.
CÁC ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG TRONG NGÀY.
1/ Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 3,2% trong quý 3 so với mức dự kiến là 2,9%
Nền kinh tế Mỹ đã mở rộng với tốc độ hàng năm là 3,2% trong quý thứ ba, ước tính cuối cùng của Cục Phân tích Kinh tế Mỹ (BEA) cho thấy vào thứ 5. Kết quả này tốt hơn so với ước tính trước đó và kỳ vọng của thị trường là 2,9%.
“Các ước tính được cập nhật chủ yếu phản ánh những điều chỉnh tăng đối với chi tiêu của người tiêu dùng và đầu tư cố định phi dân cư được bù đắp một phần bởi sự điều chỉnh giảm đối với đầu tư hàng tồn kho tư nhân,” Cục Phân tích Kinh tế Mỹ (BEA) đã giải thích trong bản công bố của mình.
- Chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi (so với quý trước) đạt 4.7% vượt mức mong đợi (4.6%) trong 3Q.
- Chỉ số Giá Chi tiêu Tiêu dùng Cá nhân (Hàng quý) đạt kỳ vọng (4.3%) trong 3Q
- Đề nghị tiếp tục trợ cấp thất nghiệp thấp hơn dự đoán (1.683M) trong tháng 12: Thực tế (1.672M)
- Khai báo thất nghiệp lần đầu đạt 216K thấp hơn dự đoán (222K) trong tháng 12.
=> NGUYÊN NHÂN “GIẢM MẠNH” CỦA THỊ TRƯỜNG VÀNG THẾ GIỚI:
- Nền kinh tế Mỹ tốt hơn dự đoán => FED tránh được nguy cơ suy thoái do các chính sách thắt chặt lãi suất của mình trong thời gian qua.
- Tình hình lạm phát tại Mỹ đạt kì vọng nhưng vẫn còn khá cao so với mức mục tiêu.
2/ Theo Kinh tế Anh suy giảm sâu hơn mức dự kiến trong quý III/2022 | baotintuc.vn– Kinh tế Anh suy giảm sâu hơn mức dự kiến trong quý III/2022.
Nền kinh tế Anh trong quý III/2022 đã suy giảm sâu hơn ước tính trước đó, và tụt hậu so với nhiều nền kinh tế tiên tiến khác trong bối cảnh các hộ gia đình ở “xứ sở sương mù” đang phải chật vật với tình trạng lạm phát cao.
Phóng viên TTXVN tại London dẫn số liệu của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS) công bố ngày 22/12 cho biết Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này ước giảm 0,3% trong giai đoạn từ tháng 7 – 9/2022 (quý III/2022), cao hơn mức ước tính trước đó là 0,2%. GDP quý III/2022 ước tính giảm 0,8% so với quý IV/2019, trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Trước đó, ONS dự báo GDP của Anh trong quý III năm nay chỉ thấp hơn 0,4% so với mức trước đại dịch.
Với số liệu mới công bố, Anh trở thành quốc gia duy nhất trong Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) chưa đạt được mức phục hồi trước đại dịch khi nền kinh tế toàn cầu bị phong tỏa vào năm 2020. Quý III/2022, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng 4,3% so với Quý IV/2019, trong khi GDP của Canada tăng 2,7%; khu vực đồng euro tăng 2,2%; Nhật Bản tăng 0,9%.
Nhà kinh tế học Gabriella Dickens tại công ty tư vấn Pantheon Macroeconomics cảnh báo nền kinh tế Anh sẽ tiếp tục tụt hậu so với các quốc gia thành viên G7 khác, nhận định Anh sẽ hứng chịu cuộc suy thoái sâu nhất trong số các nền kinh tế tiên tiến vào năm 2023 do mức độ nghiêm trọng của những hạn chế từ các chính sách tiền tệ và tài khóa.
Tháng trước, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cũng dự báo trong 2 năm tới, Anh sẽ là nền kinh tế tăng trưởng kém nhất trong Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20), trừ Nga.
Theo số liệu của ONS, người tiêu dùng Anh không chi lạm vào khoản tiết kiệm cao như dự báo, qua đó cho thấy suy thoái kinh tế ở Anh có thể nghiêm trọng hơn so với dự kiến.
Cũng theo ONS, tỷ lệ tiết kiệm ngoài lương hưu, là phần thu nhập trung bình được tiết kiệm, đã tăng 1,8% trong quý III/2022 so với mức 1,3% trong Quý II/2022, cho thấy người dân Anh đang trở nên thận trọng hơn trong bối cảnh gia tăng những rủi ro kinh tế. Hồi tháng 11, Văn phòng Trách nhiệm Ngân sách (OBR) – cơ quan giám sát tài chính của Vương quốc Anh – dự báo tỷ lệ tiết kiệm sẽ giảm xuống mức 0% trong quý III/2022 do các hộ gia đình rút tiền tiết kiệm để bù đắp tác động của tình trạng giá cả tăng cao. Xu hướng người tiêu dùng tiếp tục tiết kiệm, thay vì chi tiêu, có thể dẫn đến suy thoái kinh tế sâu hơn so với mức sụt giảm 2,1% từ đỉnh đến đáy suy thoái mà OBR dự báo trước đó.
Dữ liệu của ONS cũng cho thấy thu nhập khả dụng thực tế của các hộ gia đình giảm 0,5% trong giai đoạn từ tháng 7 – 9/2022. Đây là mức giảm thứ 4 liên tiếp do tiền lương không theo kịp lạm phát. Với thu nhập thực tế giảm hoặc không tăng trong 3 năm qua, thu nhập thực tế của các hộ gia đình ở Anh hiện thấp hơn 2,9% so với quý III/2019 – mức giảm lớn nhất kể từ khi số liệu này được lưu trữ.
Trong khi đó, chi tiêu của các hộ gia đình đã giảm 1,1% trong quý III/2022, mức giảm đầu tiên kể từ đầu năm ngoái khi Anh thực hiện phong tỏa để phòng, chống đại dịch COVID-19.
Ngân hàng trung ương Anh (BoE) đánh giá nền kinh tế suy giảm trong quý III/2022 đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc suy thoái sâu tại ở “xứ sở sương mù”, có thể kéo dài đến hết năm 2024. Nhà kinh tế Thomas Pugh tại công ty kiểm toán, thuế và tư vấn RSM UK cũng dự báo nền kinh tế Anh trong năm 2025 có thể sẽ không tăng trưởng cao hơn mức của năm 2019 trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát.
Ông Pugh nhận định Anh gần như chắc chắn đã rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài và có thể trầm trọng hơn so với cuộc khủng hoảng vào đầu những năm 1990.
Minh Hợp (TTXVN)
Somalia đứng đầu danh sách 10 quốc gia lâm khủng hoảng khi có 7,1 triệu người, chiếm 45% dân số, đang trong tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng. Trong danh sách 101 cuộc khủng hoảng gây nhức nhối thế giới trong năm 2023 còn có khủng hoảng nhân đạo do cuộc xung đột tại Ukraine, nội chiến Yemen, đói nghèo ở Afghanistan…
Hàng năm, Ủy ban Cứu hộ Quốc tế (IRC) công bố danh sách 20 cuộc khủng hoảng nhân đạo dự kiến sẽ trở nên tồi tệ nhất trong năm tới.
Bước sang năm 2023, các quốc gia trên toàn cầu tiếp tục phải vật lộn với những cuộc xung đột kéo dài hàng thập kỷ, bất ổn kinh tế và những tác động tàn phá của biến đổi khí hậu. Các biện pháp bảo vệ từng ngăn chặn các cuộc khủng hoảng như vậy vượt khỏi tầm kiểm soát, chẳng hạn các hiệp ước hòa bình, viện trợ nhân đạo và trách nhiệm giải trình đối với các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế đã bị suy yếu hoặc bị dỡ bỏ.
Dưới đây là Top 10 cuộc khủng hoảng dự kiến sẽ gây ảnh hưởng nặng nề nhất trong năm 2023, theo đánh giá của IRC:
10. Xung đột tại Ukraine gây ra cuộc khủng hoảng di cư lớn nhất thế giới
Theo Cơ quan Tị nạn Liên Hợp Quốc (UNHCR), cuộc xung đột ở Ukraine đã gây ra cuộc khủng hoảng di cư nhanh nhất, lớn nhất thế giới trong nhiều thập kỷ. Nhiều người dân Ukraine đang phải đối mặt với mùa đông thiếu thốn thực phẩm, không có nước sạch, năng lượng, chăm sóc sức khỏe và các nguồn cung cấp thiết yếu khác. Cuộc xung đột cũng tiếp tục có tác động domino trên toàn thế giới.
Xung đột tại Ukraine gần như chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài sang năm 2023, với việc người dân phải đối mặt với nguy cơ bị thương, bệnh tật và tử vong ngày càng cao. Các cuộc tấn công bằng tên lửa, máy bay không người lái, các cuộc pháo kích có thể khiến hàng triệu người không có nước, điện và sưởi ấm trong mùa đông. 6,5 triệu người Ukraine đã phải di dời trong nước, trong khi hơn 7,8 triệu người đang tị nạn trên khắp châu Âu.
9. Bạo lực băng đảng, hỗn loạn xã hội và biến đổi khí hậu ở Haiti
Haiti lọt vào top 10 trong Danh sách Theo dõi của IRC khi bất ổn chính trị và bạo lực băng đảng gia tăng sau vụ ám sát Tổng thống Jovenel Moise vào năm 2021. Các băng đảng có vũ trang thường xuyên kiểm soát các tuyến đường phân phối, gây ra tình trạng thiếu hàng hóa cơ bản và nhiên liệu. Giá cả tăng khiến người dâ ngày càng khó mua thực phẩm.
Trong khi đó, những cú sốc về khí hậu và đợt bùng phát dịch tả đầu tiên trong ba năm đã làm căng thẳng các hệ thống chăm sóc sức khỏe và dịch tễ.
Năm 2023, dự kiến bạo lực băng đảng sẽ tiếp tục phá vỡ sinh kế và các dịch vụ thiết yếu của người dân. Các vụ bắt cóc, hãm hiếp và giết người đều đang gia tăng, khiến hàng nghìn người có nguy cơ tử vong. Haiti cũng ghi nhận mức độ mất an ninh lương thực kỷ lục vào năm 2022, dự kiến sẽ trở nên tồi tệ hơn vào năm 2023.
8. Các băng nhóm vũ trang gây bất ổn ở Burkina Faso
Tình hình ở Burkina Faso ngày càng trở nên nghiêm trọng khi các nhóm vũ trang tăng cường tấn công và chiếm đất. Căng thẳng giữa các phe phái chính trị của đất nước đã góp phần gây ra sự bất ổn. Các thành viên của lực lượng vũ trang đã lên nắm quyền hai lần chỉ riêng trong năm 2022.
Các nhóm vũ trang hiện kiểm soát tới 40% diện tích đất nước. Mặc dù nhu cầu rất lớn, viện trợ nhân đạo bị hạn chế do xung đột và thiếu kinh phí. Một số thị trấn ở phía Bắc Burkina Faso gần như bị cắt đứt viện trợ hoàn toàn. Giá lương thực đã tăng 30%, khiến Burkina Faso nằm trong số những nước có tỷ lệ lạm phát lương thực cao nhất trên thế giới.
7. Các thảm họa khí hậu sau nội chiến Nam Sudan
Nam Sudan vẫn đang phục hồi sau cuộc nội chiến kết thúc vào năm 2018. Mặc dù xung đột đã giảm nhưng giao tranh cục bộ vẫn lan rộng. Đất nước này là một trong những nơi hòa bình mong manh nhất trên thế giới.
Các thảm họa khí hậu bao gồm lũ lụt và hạn hán nghiêm trọng khiến người dân ngày càng khó tiếp cận lương thực và các nguồn lực cơ bản.
Nhiều người Nam Sudan hơn bao giờ hết – ước tính 7,8 triệu người – sẽ phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực ở mức độ khủng hoảng vào năm 2023. Bất chấp lũ lụt nghiêm trọng, mùa màng bị tàn phá và dịch bệnh bùng phát, tình trạng thiếu kinh phí đã buộc Chương trình Lương thực Thế giới phải tạm dừng một phần viện trợ lương thực vào năm 2022.
Xung đột trên khắp đất nước cũng đe dọa thường dân và những người ủng hộ nhân đạo. Nam Sudan luôn có mức độ bạo lực cao nhất thế giới đối với nhân viên cứu trợ, cản trở khả năng tiếp cận những người cần giúp đỡ của họ.
6. Khủng hoảng y tế tại Syria sau nhiều năm chiến tranh
Hơn một thập kỷ chiến tranh đã phá hủy hệ thống y tế của Syria và đẩy đất nước này đến bờ vực sụp đổ kinh tế. Một thập kỷ xung đột ở nước láng giềng Liban tiếp tục làm tăng thêm giá lương thực và nghèo đói. Hiện tại, 75% người dân Syria không thể đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất và hàng triệu người sống nhờ vào viện trợ nhân đạo.
Dự kiến trong năm 2023, giá cả hàng hóa sẽ tiếp tục tăng. Xung đột và các cuộc không kích đang diễn ra có thể buộc nhiều người phải rời bỏ nhà cửa của họ. Ngoài ra, đợt bùng phát dịch tả đầu tiên trong một thập kỷ có nguy cơ làm quá tải hệ thống nước và chăm sóc sức khỏe của Syria.
Kể từ năm 2014, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã ủy quyền cho các cơ quan của Liên hợp quốc chuyển hàng viện trợ từ các nước láng giềng vào Syria. Dây cứu sinh quan trọng này có thể bị cắt đối với hàng triệu người vào đầu năm 2023, tức là giữa mùa đông khi nhu cầu sẽ đặc biệt cấp bách.
5. Thỏa thuận ngừng bắn thất bại có thể dẫn đến xung đột mới ở Yemen
Cuộc khủng hoảng ở Yemen đang ngày càng sâu sắc khi cuộc xung đột kéo dài 8 năm giữa các nhóm vũ trang và lực lượng chính phủ vẫn chưa được giải quyết. Mặc dù lệnh ngừng bắn giúp giảm giao tranh trong vài tháng, nhưng đã sụp đổ vào tháng 10/2022 và không thể giúp giảm thiểu hậu quả về kinh tế và sức khỏe. Hiện tại, 80% dân số Yemen sống trong cảnh cực kỳ nghèo khổ và 2,2 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng trầm trọng.
Do thỏa thuận ngừng bắn thất bại, xung đột lớn có thể tiếp tục vào năm 2023. Yemen có nguy cơ bạo lực gia tăng trừ khi đạt được thỏa thuận ngừng bắn lâu hơn.
4. Xung đột kéo dài hàng thập kỷ leo thang tại Cộng hòa Dân chủ Congo
Hơn 100 nhóm vũ trang tranh giành quyền kiểm soát ở miền Đông CHDC Congo (DRC), châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng kéo dài hàng thập kỷ. Dân thường trở thành những mục tiêu chủ yếu. Nhóm vũ trang M23 đã phát động một cuộc tấn công mới vào năm 2022, buộc các gia đình phải rời bỏ nhà cửa và làm gián đoạn viện trợ nhân đạo.
Các đợt bùng phát dịch bệnh lớn – bao gồm sởi, sốt rét và Ebola – tiếp tục đe dọa hệ thống chăm sóc sức khỏe vốn đã yếu kém, khiến nhiều sinh mạng gặp nguy hiểm.
Trong năm 2023, xung đột vẫn là mối quan tâm chính ở CHDC Congo, đặc biệt là khi căng thẳng leo thang và M23 nắm quyền kiểm soát nhiều vùng đất hơn.
3. Afghanistan – Cả dân tộc bị đẩy vào cảnh đói nghèo
Afghanistan xếp thứ nhất trong Danh sách theo dõi năm 2022 nhưng xuống thứ ba vào năm 2023 -không phải vì điều kiện đã được cải thiện mà vì tình hình ở Đông Phi trở nên quá nghiêm trọng.
Hơn một năm kể từ khi lực lượng Taliban lên nắm quyền, Afghanistan vẫn trong tình trạng suy sụp kinh tế. Viện trợ quốc tế tăng nhanh đã ngăn chặn nạn đói vào mùa đông năm ngoái, nhưng nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng vẫn tồn tại. Những nỗ lực liên tục để thu hút sự tham gia của chính phủ và cải thiện nền kinh tế đã thất bại. Gần như toàn bộ dân số Afghanistan hiện đang sống trong cảnh nghèo đói và chuẩn bị cho một mùa đông dài nữa.
Bước vào mùa đông 2023, hàng triệu người không thể chi trả cho các nhu cầu cơ bản, sau khi hạn hán và lũ lụt đã tàn phá mùa màng và vật nuôi.
Phụ nữ và trẻ em gái Afghanistan sẽ hứng chịu những gánh nặng lớn nhất. Họ vẫn có nguy cơ bị bạo lực và bóc lột, và phần lớn không có tiếng nói khi chính phủ cấm phụ nữ học hành, ăn mặc, đi lại và tham gia chính trị.
2. Hạn hán và xung đột hành hạ hàng chục triệu người Ethiopia
Ethiopia đang hướng tới mùa mưa không có mưa thứ sáu liên tiếp, làm trầm trọng hơn nạn hạn hán vốn đã ảnh hưởng đến 24 triệu người. Đồng thời, các cuộc xung đột khác nhau trên khắp đất nước đang làm gián đoạn cuộc sống và ngăn cản các tổ chức nhân đạo cung cấp viện trợ.
Một thỏa thuận hòa bình vào tháng 11/2022 có thể được duy trì và mang lại hy vọng chấm dứt xung đột ở Tigray, miền bắc Ethiopia, nhưng 28,6 triệu người vẫn cần viện trợ nhân đạo.
Ứng phó với hạn hán của Ethiopia cần 1,66 tỷ USD nhưng nước này chỉ được tài trợ 42% số tiền đó tính đến cuối năm 2022.
1. Thảm họa nạn đói ở Somalia
Lần đầu tiên đứng đầu Danh sách Theo dõi của Tổ chức Cứu hộ Quốc tế, Somalia đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng hạn hán và đói kém chưa từng có. Người dân mất mạng vì đói và đất nước đang trên bờ vực của nạn đói.
Biến đổi khí hậu do con người gây ra càng làm tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của hạn hán. Nhiều thập kỷ xung đột đã làm xói mòn khả năng của Somalia trong việc ứng phó với các cú sốc dưới bất kỳ hình thức nào, phá hủy các hệ thống và cơ sở hạ tầng lẽ ra đã tạo ra một hàng rào bảo vệ chống lại cuộc khủng hoảng hiện nay.
Ví dụ, với việc sản xuất lương thực bị suy giảm do biến đổi khí hậu và xung đột, sự phụ thuộc vào nhập khẩu của Somalia giờ đứng trước thách thức lớn hơn, khi hơn 90% lúa mì của nước này nhập từ Nga và Ukraine.