TIN TỨC ĐẦU TƯ VÀNG 22/12

THỊ TRƯỜNG VÀNG CÓ NHỊP ĐIỀU CHỈNH SAU NHIỀU PHIÊN TĂNG MẠNH.

Cụ thể, khi kết thúc phiên giao dịch ngày 21/12, giá vàng giao ngay ổn định ở mức 1817,95 USD mỗi oz, sau khi tăng hơn 1% vào thứ Ba do VND mỗi đô la giảm, vàng kỳ hạn tháng 2/2023 cũng không thay đổi so với phiên trước đó, ở mức 1825,40 USD một oz.

Trong phiên giao dịch hôm nay, thị trường Vàng cho thấy dấu hiệu điều chỉnh sau nhiều phiên tăng. Cụ thể, trong phiên hiện nay, mỗi oz Vàng trên sàn Thế Giới niêm yết ở mức khoảng 1815 USD. Tức khi qui đổi tương đương theo tỉ giá ngoại tệ hiện hành thì mỗi lượng Vàng trên sàn Thế Giới có giá khoảng 52,318 triệu VND mỗi (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước trong phiên hiện nay, tính trên một lượng Vàng, hai thị trường hiện chênh nhau khoảng 14,584 triệu VND.

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.

VND mỗi Dollar Mỹ: Trong phiên giao dịch ngày 21/12, chỉ số Dollar index, chỉ số so sánh USD với rổ 6 VND mỗi tiền đối tác chủ chốt, tăng 0,25% lên 104,232 do tỷ giá JPY/USD phục hồi 0,42% trong khi bảng Anh giảm 0,86% do làn sóng đình công của công nhân Anh và nợ công của nước này cao kỷ lục. Hiện chỉ số này đang ở mức 104,1 điểm.

Đường cong lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng trở lại sau khi dữ liệu cho thấy doanh số bán nhà hiện tại của Mỹ đã giảm 7,7% xuống mức thấp nhất trong 2,5 năm. Giá nhà trung bình giảm 2,1% nhưng vẫn tăng 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 37% so với mức trước đại dịch do lượng hàng tồn kho cực kỳ khan hiếm.

Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Mỹ trong tháng 12 đã tăng lên 108,3 từ mức 101,4 trước đó, phần lớn là do kỳ vọng lạm phát sẽ hạ nhiệt.

VND mỗi yen trong phiên vừa qua liên tục biến động, kết thúc phiên mất đi một phần mức tăng của ngày hôm trước – khi một động thái điều chỉnh bất ngờ của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã đẩy VND mỗi nội tệ của nước này tăng 4% so với USD.

USD đã tăng 0,4% so với yen Nhật trong ngày 21/12, sau khi giảm 4% ở phiên liền trước – mức giảm trong một ngày mạnh nhất trong vòng 24 năm so với tiền Nhật Bản.

BOJ đã quyết định thay đổi chính sách “kiểm soát đường cong lợi suất” vào thứ Ba (20/12) ngay cả khi họ giữ nguyên các chính sách chung về lãi suất ngắn hạn và lợi suất trái phiếu. Theo đó, biên độ dao động lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm được tăng từ 0,25% lên 0,5%.

John Doyle, phó chủ tịch phụ trách giao dịch của Monex USA cho biết: “Tôi nghĩ rằng động thái ngày hôm qua (của BOJ) là đi đúng xu hướng nhưng có lẽ hơi quá đà. Do đó, việc yen giảm nhẹ giá trị sau khi tăng là lẽ đương nhiên”.

Ông Doyle cho biết, với quy mô biến động của tỷ giá cặp JPY/USD trong phiên 21/12, các các nhà giao dịch nên xác định cặp tiền này sẽ không ổn định.

Các chiến lược gia cho rằng một số động thái đang diễn ra là do tính thanh khoản kém trước kỳ nghỉ lễ.

Marc Chandler, giám đốc phụ trách chiến lược thị trường của Bannockburn Forex ở New York, cho biết: “Động thái của VND mỗi yên đã quá trớn. Rất nhiều người đã bị “bỏng tay” và với thanh khoản thấp trong kỳ nghỉ lễ, không nhiều người muốn tham gia thị trường ngay lúc này”.

Tuy nhiên, ông Chandler nói thêm rằng: “Tôi nghĩ rằng VND mỗi đô la đã đạt đỉnh. Tôi không nghĩ tỷ giá JPY/USD sẽ sớm đạt mức 150 (yen)”.

Câu chuyện của năm 2022 là sức mạnh của VND mỗi đô la, vốn đã tăng mạnh khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất với tốc độ chóng mặt và do căng thẳng địa chính trị gia tăng khiến các nhà đầu tư tìm kiếm nơi trú ẩn bằng các loại tiền tệ ít rủi ro hơn.

BOJ, từ nhiều năm nay đã luôn quan tâm tới việc thúc đẩy giá cả để ngăn chặn nguy cơ giảm phát, nên năm nay là một hiện tượng ngoại lệ trong số các ngân hàng trung ương lớn khi giữ lãi suất âm kéo dài trong khi các ngân hàng trung ương lớn khác đã tăng mạnh lãi suất để ngăn chặn lạm phát và củng cố VND mỗi nội tệ so với USD.

Trong báo cáo nghiên cứu công bố hôm 21/12, ngân hàng Goldman Sachs cho biết hướng đi của VND mỗi yên trong thời gian tới sẽ phụ thuộc vào việc động thái của BOJ là một sự điều chỉnh kỹ thuật như ngân hàng trung ương đã chỉ ra, hay là sự khởi đầu của một chế độ chính sách tiền tệ thắt chặt hơn.

Goldman cho rằng hiện tại, động thái của BOJ là một sự điều chỉnh kỹ thuật và là “dấu hiệu cho thấy lãi suất chính sách có thể được điều chỉnh thêm trong tháng tới”, mặc dù khuôn khổ cơ bản của BOJ vẫn không thay đổi.

VND mỗi bảng Anh giảm giá so với USD trong phiên vừa qua sau khi khoản nợ công của nước Anh lên đến mức cao kỷ lục trong tháng 11, làm gia tăng những thách thức đối với nền kinh tế Anh. Kết thúc phiên 21/12, bảng Anh giảm 0,8% xuống 1,2091 USD. VND mỗi bảng Anh hồi tháng 9 đã giảm xuống mức thấp kỷ lục.

VND mỗi euro phiên vừa qua cũng giảm 0,13% so với USD, xuống 1,06070, Tỷ giá cặp tiền USD/EUR đã hồi phục 12,7% từ mức thấp nhất trong 20 năm chạm tới hồi tháng 9.

VND mỗi đô la Canada ít thay đổi trong phiên này, ở mức khoảng 1,3595 so với VND mỗi bạc xanh, do các nhà đầu tư vẫn chưa xác định được liệu Ngân hàng Trung ương Canada có thắt chặt tiền tệ hơn nữa vào tháng tới hay không, sau dữ liệu lạm phát tháng 11 cho thấy tác động vừa tích cực vừa tiêu cực.

Các nhà phân tích cho rằng với tình trạng thanh khoản thấp trước kỳ nghỉ lễ và trước khi kết thúc một năm như hiện nay, việc USD tăng giá chưa chắc sẽ làm thay đổi xu hướng giảm của VND mỗi tiền này (kể từ tháng 9).

VND mỗi nhân dân tệ của Trung Quốc giảm giá trong không khí giao dịch thưa thớt do lo ngại ngày càng tăng lên về tác động của làn sóng COVID-19 mới đối với nền kinh tế nước này.

Trên thị trường giao ngay, VND mỗi nhân dân tệ nột địa kết thúc phiên 21/12 ở mức 6,9706 CNY/USD, giảm 96 pip so với phiên trước đó.

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.

Tỷ giá trung tâm cặp đồng tiền VND/USD được Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong ngày 22/12 ở mức 23.636 đồng, giảm 5 đồng so với mức công bố trước.

Tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại tăng mạnh so với mức niêm yết trước. Cụ thể, lúc 9 giờ 30 phút, Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.560 – 23.870 VND mỗi USD, đảo chiều giảm 20 VND mỗi USD cả chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.

BIDV niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.585 – 23.865 VND mỗi USD, đơn vị này lại giảm 20 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán ra so với mức niêm yết trước.

Techcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.549 – 23.850 VND mỗi USD, tgiảm 19 VND mỗi USD chiều mua vào và giảm 30 VND mỗi USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.

Eximbank niêm yết giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.670 – 23.840 VND mỗi USD, giảm 20 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.

Tỷ giá USD trên thị trường tự do sáng nay chỉ đi ngang so với phiên trước. Tại thị trường Hà Nội, lúc 9 giờ 30 phút, đồng USD giao dịch (mua – bán) ở quanh mức 23.940 – 24.010 VND mỗi USD, giảm mạnh 33 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán ra so với phiên trước.

Đồng USD trên thị trường thế giới, đảo chiều giảm trong giỏ thanh toán quốc tế. Cụ thể, chỉ số Dollar-Index – đo lường sức mạnh đồng USD trong giỏ 6 đồng tiền chủ chốt sáng nay 0,17% về mức 103.980 điểm, vào lúc 9 giờ 30 phút (giờ Hà Nội).

 

Tỷ giá các ngoại tệ mạnh khác trong giỏ thanh toán quốc tế tại Vietcombank hôm nay diễn biến trái chiều nhau trong biên độ hẹp.

Cụ thể, tỷ giá đồng EUR đảo chiều giảm 62 VND mỗi EUR chiều mua và giảm 65 VND mỗi EUR chiều bán ra so với phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank quanh mức 24.521 – 25.894 VND mỗi EUR.

Đồng bảng Anh, giảm mạnh 263 VND mỗi GBP chiều mua và giảm 273 VND mỗi GBP chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 27.936 – 29.127 VND mỗi GBP.

Tỷ giá đồng france Thụy Sĩ, giảm 18 VND mỗi CHF chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.968 – 26.032 VND mỗi CHF.

Đồng đô la Canada, giảm 29 VND mỗi CAD chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank ở quanh mức 16.991 – 17.716 VND mỗi CAD.

Tỷ giá đô la Úc, tăng 52 VND mỗi AUD chiều mua và giảm 55 VND mỗi AUD chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 15.530 – 16.192 VND mỗi AUD.

Tỷ giá Yên Nhật giảm 1 đồng chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán quanh mốc 164 – 174 VND mỗi JPY.

ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG TRONG NGÀY.

1/Nhật Bản sẽ bán trái phiếu chính phủ Nhật Bản (JGB) trị giá 1,44 nghìn tỷ USD năm tài chính 2023/24 – Reuters

2022-12-22 10:47 (GMT+7)

Trích dẫn một dự thảo của kế hoạch, Reuters đưa tin hôm thứ 5 rằng Bộ tài chính Nhật Bản (MoF) có kế hoạch bán trái phiếu chính phủ Nhật Bản (JGB) trị giá 190 nghìn tỷ Yên (1,44 nghìn tỷ USD) trong năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 4, với việc cắt giảm số lượng nợ ngắn hạn được bán.

Ngoài ra, Reuters lưu ý rằng các cố vấn khu vực tư nhân của hội đồng kinh tế hàng đầu của Nhật Bản hôm thứ 5 đã kêu gọi chính phủ tăng cường đàm phán về cách đảm bảo tiền lương tăng nhanh hơn lạm phát.

2/ Theo Nước Mỹ đối mặt với các rủi ro kinh tế mới | baotintuc.vnNước Mỹ đối mặt với các rủi ro kinh tế mới

Trang mạng project-syndicate.org mới đây đăng tải bài viết trong đó đề cập những rủi ro mới mà các chuyên gia dự báo nền kinh tế Mỹ có thể phải đối mặt trong năm 2023, trong bối cảnh tình hình của nền kinh tế đầu tàu thế giới đang phát đi những tín hiệu trái ngược nhau.

Chú thích ảnh
 Người tìm việc xếp hàng chờ đăng ký tại trung tâm việc làm ở Washington DC., Mỹ. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN

Theo tác giả bài viết, hiện nay, thị trường lao động Mỹ vẫn khá mạnh mẽ, nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 3,7% và chỉ có 1,7 cơ hội việc làm cho mỗi người thất nghiệp. Các doanh nghiệp cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm người lao động. Mặc dù tỷ lệ việc làm đã trở lại mức trước đại dịch COVID-19, nhưng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn chậm lại, đáng lo ngại nhất là ở nam giới trong độ tuổi trưởng thành (25-54 tuổi).

Tổng cộng, có khoảng 1-2 triệu người lao động “biến mất” bởi lẽ ra họ vẫn còn ở trong lực lượng lao động của Mỹ nếu không bị gián đoạn công việc vì đại dịch. Một bộ phận người lao động lớn tuổi hơn bị mất việc thì chọn cách nghỉ hưu sớm, nhưng một số khác thì không quay lại làm việc vì lo ngại vấn đề sức khỏe, chăm sóc con cái. Trong khi đó, các khoản trợ cấp mở rộng của chính phủ khiến người dân không có động lực đi làm và gia tăng tiền kiết kiệm (một nửa trong đó có lẽ đã được rút ra), hoặc những thay đổi trong các lựa chọn cân bằng cuộc sống-công việc.

Ngoài lạm phát dai dẳng và chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn (sẽ được duy trì cho đến khi đạt được tiến bộ đáng kể đối với mục tiêu lạm phát 2%), yếu tố lớn nhất trong triển vọng năm 2023 là cách các công ty phản ứng với tình trạng giảm nhu cầu mua sắm. Theo các chuyên gia, hiện chưa rõ các doanh nghiệp sẽ ra thông báo sa thải hàng loạt như thường lệ hay hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để giữ chân người lao động có trình độ hoặc tuyển dụng thêm nhân sự.

Yếu tố tiêu cực lớn nhất là lạm phát đã giảm dần nhưng vẫn cao hơn nhiều lần so với mức mục tiêu 2% của Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED). Chưa rõ liệu sự ổn định giá có thể nhanh chóng được khôi phục thông qua việc nhu cầu tăng chậm hơn, giải quyết các vấn đề về chuỗi cung ứng và chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn hay không. Một rủi ro lớn là các công ty sẽ tăng lương để thu hút hoặc giữ chân nhân viên, tạo ra vòng xoáy giá lương. Cho đến nay, tăng trưởng tiền lương đã bị tụt hậu so với tăng trưởng giá cả, nhưng không có gì đảm bảo xu hướng này sẽ kéo dài.

Chú thích ảnh
Người dân mua hàng tại siêu thị ở Glendale, bang California, Mỹ. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN

FED cho rằng việc thắt chặt tiền tệ có độ trễ dài và có thể thay đổi (thường là 12-18 tháng), và lãi suất mục tiêu phải tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến trong tương lai trong một khoảng thời gian nào đó. Lạm phát năm 2023 dự báo vào khoảng 4% – theo dự báo của Blue Chip (phản ánh quan điểm của 50 nhà dự báo khu vực tư nhân); dưới 3% – theo thị trường trái phiếu; và gần 5% – theo khảo sát tâm lý người tiêu dùng.

Những người lạc quan đang mong đợi các đợt tăng lãi suất bổ sung vừa phải của FED từ mức 4,25-4,5% hiện tại. FED hình dung mức cao nhất là 5,1%. Tuy nhiên, hy vọng về một số nới lỏng vào cuối năm tới đã giảm đi trong tháng này khi Chủ tịch FED Jerome Powell đã đề xuất rằng việc cắt giảm lãi suất trở lại mức 4,1% sẽ không diễn ra cho đến năm 2024.

Triển vọng thậm chí ảm đạm hơn đối với nhiều nền kinh tế khác sẽ làm tăng thêm khó khăn trong việc thiết kế một cuộc “hạ cánh mềm”, trong đó số lượng mất việc làm ít nhất có thể. Trong bối cảnh tăng trưởng yếu hoặc suy thoái hoàn toàn từ Trung Quốc và châu Âu cho đến các nước đang phát triển ở châu Mỹ Latinh, châu Á và châu Phi, sự tăng giá liên tục của đồng USD là tin xấu đối với ngành xuất khẩu của Mỹ.

Bích Ngọc (TTXVN)
LỊCH KINH TẾ TRONG NGÀY.
22/12/2022
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x