THỊ TRƯỜNG VÀNG TĂNG MẠNH, ĐỒNG DOLLAR LAO DỐC SAU QUYẾT ĐỊNH TỪ CHƯƠNG TRÌNH KIỂM SOÁT LỢI SUẤT TRÁI PHIẾU CỦA CHÍNH PHỦ NHẬT BẢN.
Cụ thể, trong phiên giao dịch kết thúc ngày 20/12, giá vàng tăng hơn 1% lên mức cao nhất trong một tuần, Vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 1,6% lên 1815,10 USD mỗi oz, trong khi vàng kỳ hạn tháng 2/2023 tăng 1,5% ở mức 1825,4 USD/oz.
Trong hôm nay, thị trường Vàng duy trì mức cao trong hôm qua. Cụ thể, hiện nay, mỗi oz Vàng trên sàn Thế Giới niêm yết ở mức khoảng 1820 USD. Tức khi qui đổi tương đương theo tỉ giá ngoại tệ hiện hành thì mỗi lượng Vàng trên sàn Thế Giới có giá khoảng 52,59 triệu đồng (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước trong phiên hiện nay, tính trên một lượng Vàng, hai thị trường hiện chênh nhau khoảng 14,614 triệu đồng.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.
Đồng Dollar Mỹ: Chỉ số Dollar Index, chỉ số đo lường sức mạnh đồng USD với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) đứng ở mức 104,27, giảm 0,45 điểm (tương đương 0,43%) so với phiên giao dịch trước. .Hiện 1 euro đổi 1,06 USD. 1 bảng Anh đổi 1,213 USD. 1 USD đổi 132,5 yên. 1 USD đổi 1,365 đô la Canada. 1 đô la Úc đổi 0,664 USD, 1 USD đổi 0,93 France Thụy Sĩ.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản-BoJ vẫn giữ nguyên lãi suất ngắn hạn ở mức âm 0,1% và lãi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản (JGB) kỳ hạn 10 năm ở mức khoảng 0%, song BOJ đã quyết định nới rộng gấp đôi biên độ dao động JGB từ +/- 0,25% lên +/- 0,5%, một động thái khiến các nhà đầu tư lo lắng về nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu do làn sóng tăng lãi suất và lạm phát không thể kiểm soát.
Theo giới phân tích, quyết định trên đồng nghĩa với việc BoJ đã tăng lãi suất dài hạn. Mặt khác, với việc tăng gấp đôi biên độ dao động lãi suất trái phiếu dài hạn, về nguyên tắc, BoJ sẽ tiếp tục mua vào không giới hạn trái phiếu JGB kỳ hạn 10 năm ở mức lãi suất mới trong tất cả các ngày làm việc.
Quyết định này được đưa ra sau phiên họp thường kỳ kéo dài hai ngày của Hội đồng Chính sách BoJ trong bối cảnh hàng loạt ngân hàng trung ương lớn trên thế giới, trong đó có Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), đã liên tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.
Động thái này gây bất ngờ vì hầu hết những người theo dõi BOJ đều cho rằng tổ chức này sẽ không có thay đổi nào cho đến khi nhiệm kỳ 10 năm của Thống đốc hiện tại Haruhiko Kuroda kết thúc vào cuối tháng Ba tới.
Đồng đô la kết thúc phiên 20/12 giảm 3,9% so với đồng tiền Nhật Bản, xuống 131,655 JPY, sau khi có lúc chạm 130,58 JPY, mức thấp nhất kể từ đầu tháng 8. BOJ nới rộng biên độ dao động lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm.
Bipan Rai, trưởng bộ phận chiến lược ngoại hối khu vực Bắc Mỹ của công ty CIBC Capital Markets, cho biết: “Chúng tôi đã dự đoán đây sẽ là câu chuyện của đầu năm 2023 chứ không phải bây giờ.”.
Theo ông Rai: “Việc BOJ sửa đổi chính sách kiểm soát đường cong lợi suất là một động lực đáng kể đối với thị trường ngoại hối chỉ sau một đêm”.
Lợi tức JGB kỳ hạn 10 năm đã tăng lên 0,46% so với mức trần trước đó là 0,25%. Điều đó cũng kéo lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn tương đương tăng lên, với lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng vọt lên mức cao nhất trong tháng này, đạt 3,711%.
“Cú đánh” vào đồng đô la xảy ra vào thời điểm đồng tiền này đang giảm giá sau khi tăng mạnh từ đầu năm đến nay, khi các nhà đầu tư ngày càng tin rằng Fed sắp hoàn thành việc tăng lãi suất mạnh mẽ – yếu tố đã thúc đẩy đồng USD tăng mạnh.
“Rủi ro trong trung hạn nghiêng về xu hướng giảm giá của tỷ giá USD/JPYdo quy mô lớn của cặp tỷ giá này, từ đó cũng sẽ tác động lan truyền sang các loại tiền tệ khác”, công Rai của CIBC cho biết.
Tại cuộc họp báo sau thông báo, thống đốc BOJ Kuroda đã cố gắng nhấn mạnh rằng sự thay đổi này “không phải là tăng lãi suất” mà là để cải thiện chức năng của thị trường trái phiếu. Ông nhắc lại rằng còn quá sớm để thảo luận về việc thoát khỏi gói kích thích.
Jane Foley, người phụ trách mảng Chiến lược ngoại hối của Rabobank, cho biết: “Có thể nói rằng đồng yên đã duy trì sức mạnh sau thông báo, cho thấy thị trường không tin vào ông Kuroda”. “Tất cả những gì thị trường thấy ở đây là Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã mở ra cơ hội thắt chặt chính sách hơn nữa và thị trường có vẻ khá chắc chắn rằng điều đó có thể xảy ra vào mùa xuân,” ông Foley nói thêm, đồng thời cho biết tỷ giá USD/JPY có thể giảm xuống mức thấp nhất là 125.
Chỉ số đô la Dollar index – so sánh USD với rổ các đồng tiền đối tác của Mỹ – tính từ đầu năm đến cuối tháng 9 đã tăng gần 19%, sau đó hạ nhiệt để đến thời điểm hiện tại chỉ còn tăng khoảng 9%.
Lạm phát của Mỹ giảm mạnh đã khiến các nhà giao dịch đặt cược rằng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ sớm ngừng tăng lãi suất, khiến đồng đô la lao dốc so với các loại tiền tệ chính.
Fed đã tăng lãi suất nhiều hơn so với các nền kinh tế lớn khác vào năm 2022, thu hút các nhà đầu tư hướng tới các tài sản bằng đô la. Nhưng sự khác biệt đó có thể sớm kết thúc, có khả năng khiến các nhà đầu tư rời bỏ đồng bạc xanh.
Cũng trong ngày 20/12, đồng yen tăng mạnh trên diện rộng, với euro giảm 3,5% so với yen xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 9, là 140,17 JPY; bảng Anh cũng giảm 3,7% xuống mức thấp nhất kể từ ngày 12 tháng 10 là 160,34 yên.
Đồng euro tăng 0,12 % so với USD trong phiên này, lên 1,0621 USD. Với việc các nhà đầu tư khá thờ sơ với các tài sản rủi ro hơn, đồng đô la Úc, được coi là đại diện của các tiền tệ rủi ro, giảm đã giảm 0,38% xuống mức thấp mới trong 1 tháng.
Bảng Anh tiếp tục tăng so với USD, hướng đến quý tăng giá mạnh nhất kể từ năm 2009. Theo đó, bảng Anh kết thúc phiên 20/12 tăng 0,1% so với USD, lên 1,216 USD/GBP. Tính từ đầu quý 4/2022 đến nay, bảng đã tăng 8,8% so với đô la, quý tăng tốt nhất trong hơn 13 năm.
Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay, bảng Anh vẫn giảm khoảng 10% giá trị so với USD, và giảm hơn 4% so với euro.
Các nhà phân tích tỏ ra bi quan về triển vọng của đồng bảng Anh, với nền kinh tế Anh được coi là có khả năng tồi tệ hơn so với các nền kinh tế lớn trong những năm tới.
Goldman Sachs dự kiến đồng bảng sẽ giảm xuống còn 1,07 đô la trong vòng ba tháng và đứng ở mức 1,11 đô la trong sáu tháng
Tỷ giá USD hôm nay tiếp tục lao đốc. Việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu giảm tốc độ tăng lãi suất trong đợt điều chỉnh vừa qua đã khiến đồng USD được nhận định là đã qua mức đỉnh.
Một số nhà phân tích thị trường cho rằng, nếu kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái sâu, Fed sẽ nhanh chóng nới lỏng chính sách tiền tệ, sẽ có lợi cho vàng nhưng là tin xấu đối với đồng bạc xanh.
Theo công cụ dự báo lãi suất của Fed – CME FedWatch Tool – 75% dự đoán Fed sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm phần trăm và 25% cho rằng Fed sẽ tăng thêm 50 điểm phần trăm vào tháng 2/2023.
Trong diễn biến khác, đồng Euro tăng lên so với đô la Mỹ, đạt mốc 1,06 USD, gần với mức cao nhất trong 6 tháng là 1,0737 USD. Phó chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Luis de Guindos hôm 19/12 cho biết, họ sẽ tiếp tục tăng lãi suất khu vực đồng Euro để kiềm chế lạm phát và sẽ không xem xét sửa đổi mục tiêu lạm phát trung hạn 2%.
Hôm nay, đồng yên Nhật đã bật tăng trở lại. Trên thế giới, 1 USD đổi 132,5 yên sau khi có thông tin Nhật Bản đang xem xét sửa đổi chính sách tiền tệ quan trọng. Điều này dự kiến diễn ra sau khi thống đốc mới của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản được bổ nhiệm vào tháng 4/2023.
Trong phiên đầu sáng 21/12, tỷ giá trung tâm USD/VND tại Ngân hàng Nhà nước được niêm yết ở mức 23.643 VND mỗi USD, giảm tiếp 2 VND mỗi USD so với phiên giao dịch trước. Tỷ giá tham khảo đô la Mỹ tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước ở mức 23.450 – 24.780 đồng (mua – bán).
Tỷ giá USD trong các Ngân hàng thương mại hôm nay tiếp tục được điều chỉnh theo chiều tăng giá. Cụ thể, rạng sáng nay, tại Ngân hàng Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.570 – 23.880 VND mỗi USD, giữ đà tăng 60 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
Ngân hàng BIDV giao dịch mua – bán USD ở mức 23.615 – 23.895 VND mỗi USD, cũng tăng tiếp 75 VND mỗi USD chiều mua vào và chiều bán ra. Ngân hàng ACB niêm yết giá USD ở mức 23.500 – 24.100 VND mỗi USD (mua – bán), giữ đà tăng 100 VND mỗi USD chiều mua và tăng 200 VND mỗi USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
Cùng thời điểm trên, Ngân hàng Vietinbank niêm yết giao dịch mua – bán ở quanh mức 23.550 – 23.950 VND mỗi USD, tăng 35 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán. Tại TPBank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.495 – 24.055 VND mỗi USD, cũng tăng tiếp 75 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
Tại Ngân hàng SHBBank, giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.541 – 23.900 VND mỗi USD, giảm tiếp 2 VND mỗi USD chiều mua nhưng tăng 100 VND mỗi USD giá chiều bán. Ngân hàng Techcombank, niêm yết giá USD ở mức 23.598 – 23.910 VND mỗi USD (mua – bán), giữ đà tăng 54 VND mỗi USD chiều mua vào và tăng 65 VND mỗi USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Sáng nay, các ngoại tệ mạnh trong giỏ thanh toán quốc tế được điều chỉnh tăng – giảm trái chiều nhau. Cụ thể:
- Tỷ giá đồng Euro đảo chiều giảm 56 VND mỗi EUR chiều mua và giảm 59 VND mỗi EUR chiều bán so với mức niêm yết trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.512 – 25.884 VND mỗi EUR.
- Tỷ giá đồng bảng Anh cũng đảo chiều giảm 126 VND mỗi GBP chiều mua và giảm 131 VND mỗi GBP chiều bán, niêm yết tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 28.094 – 29.291 VND mỗi GBP.
- Tỷ giá đồng France Thụy Sĩ giữ đà tăng 53 VND mỗi CHF chiều mua và tăng 55 VND mỗi CHF chiều bán so với mức niêm yết trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.904 – 25.966 VND mỗi CHF.
- Tỷ giá đồng đô la Canada đảo chiều giảm 21 VND mỗi CAD chiều mua và giảm 22 VND mỗi CAD chiều bán, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 16.904 – 17.625 VND mỗi CAD.
- Tỷ giá đô la Úc, cũng giảm 140 VND mỗi AUD chiều mua vào và giảm 146 VND mỗi CAD chiều bán ra so với mức niêm yết trước, tại Vietcombank giao dịch cùng thời điểm trên mua – bán ở quanh mức 15.376 – 16.031 VND mỗi AUD.
- Tỷ giá Yên Nhật hôm nay tăng tiếp 5 VND mỗi JPY chiều mua và chiều bán, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mốc 174 – 185 VND mỗi JPY.
CÁC ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG TRONG NGÀY.
1/ Theo Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) (vnanet.vn)–
Châu Âu vượt châu Á về nhập khẩu LNG của Nga giữa khủng hoảng năng lượng
Tính đến tháng 11 năm nay, Nga đã tăng xuất khẩu khí đốt hóa lỏng (LNG) nói chung thêm 9% so với cùng kỳ năm ngoái lên 40 tỷ mét khối. Trong khi đó, các chuyến hàng giao đến châu Âu kể từ đầu năm đã vượt xa nguồn cung cấp cho châu Á.

Báo Vedomosti trích dẫn báo cáo từ hãng tư vấn B1 cho biết khối lượng LNG của Nga xuất khẩu sang châu Âu (tính cả Anh và Thổ Nhĩ Kỳ) đã tăng 22% trong 11 tháng qua lên 20 tỷ mét khối. Lượng hàng giao đến Bỉ tăng 110% lên khoảng 5 tỷ mét khối, trong khi nguồn cung cho Pháp tăng hơn 50% lên 7,3 tỷ mét khối và đến Tây Ban Nha tăng hơn 40% lên 4,5 tỷ mét khối.
Trong số các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc đã tăng nhập khẩu LNG của Nga thêm gần 30% lên 6,5 tỷ mét khối trong giai đoạn 11 tháng qua, trong khi Nhật Bản tăng nhập khẩu 1% lên 8,4 tỷ mét khối. Ở Trung Quốc, nguồn cung từ Nga đã tăng trong bối cảnh tổng lượng LNG nhập khẩu vào nước này giảm 20%, xuống còn khoảng 77 tỷ mét khối.
Giám đốc Trung tâm Năng lượng B1 Moskva, bà Olga Beloglazova giải thích rằng tổng lượng nhập khẩu vào Trung Quốc đang giảm vì chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, các biện pháp kiểm dịch cũng như phản ứng nhạy cảm với giá cao trên thị trường.
Nhà phân tích cấp cao Nikita Blokhin tại Alfa-Bank cho hay tình trạng gia tăng xuất khẩu LNG của Nga sang Liên minh châu Âu (EU) là do nguồn cung khí đốt qua đường ống đã giảm mạnh và được thay thế bằng khí hóa lỏng, theo các bước trong kế hoạch năng lượng toàn châu Âu.
Chuyên gia này lưu ý: “LNG của Nga không phải tuân theo các lệnh trừng phạt nên vẫn tiếp tục tiếp cận thị trường châu Âu trên một sân chơi bình đẳng với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường”.
Bà Blokhin cho rằng Nga đã có khả năng tăng xuất khẩu LNG nhờ đẩy mạnh tốc độ triển khai một số dự án mới của Novatek, nhằm xây dựng các tổ hợp trung chuyển ở Murmansk và Kamchatka, cũng như cơ sở LNG-2 ở Bắc Cực.
Chuyên gia: Các nước EU trước nguy cơ thiếu khí đốt càng nghiêm trọng

“Các nước Liên minh châu Âu (EU) đã thành công trong việc tìm kiếm một thỏa thuận quan trọng để bảo vệ người dân trước giá năng lượng tăng quá cao. Các bên sẽ thiết lập một cơ chế hiệu quả và thực tế, bao gồm các biện pháp bảo vệ cần thiết để giúp tránh khỏi những rủi ro với an ninh nguồn cung và sự ổn định của thị trường tài chính.”
Ông Jozef Sikela, Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Cộng hòa Séc, nước đang giữ chức Chủ tịch luân phiên EU, đưa ra tuyên bố trên sau hội nghị bộ trưởng năng lượng EU vừa diễn ra tại Brussels, Bỉ.
Sau nhiều tuần đàm phán căng thẳng và gây chia rẽ, các nước thành viên EU đã đạt được thảo thuận về cơ chế điều chỉnh theo thị trường. Cụ thể, các bên thống nhất mức trần giá khí đốt 180 euro/MWh sẽ được áp dụng từ ngày 15/2/2023.
Cơ chế giá trần này sẽ được kích hoạt ngay khi giá giao dịch khí đốt trên sàn TTF của Hà Lan vượt quá mức 180 euro/MWh trong 3 ngày liên tiếp và giá khí đốt cao hơn ít nhất 35 euro so với mức giá tham chiếu của khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) trên thị trường toàn cầu trong cùng một thời điểm.
Cơ chế này cho phép EU vô hiệu hóa mọi giao dịch khí đốt cao hơn mức giá trên, đồng thời giúp ngăn các nhà cung cấp LNG từ bỏ châu Âu để quay sang các khách hàng trả tiền mua khí đốt với giá hấp dẫn hơn.
Ngoài ra, các bộ trưởng cũng đạt được thỏa thuận chính trị về việc đẩy nhanh triển khai năng lượng tái tạo, cách tiếp cận chung về đề xuất giảm phát thải khí methane trong lĩnh vực năng lượng và kế hoạch REPowerEU liên quan năng lượng tái tạo.
Bộ trưởng Chuyển đổi năng lượng Pháp Agnès Pannier-Runacher đánh giá thỏa thuận đã “cung cấp các biện pháp bảo vệ” để đảm bảo an ninh cung cấp khí đốt của EU và sự ổn định tài chính của các bên tham gia thị trường.
Tuy nhiên, chuyên gia Simone Tagliapietra từ Viện Bruegel cho rằng cơ chế áp giá trần khí đốt không phải là một giải pháp kỳ diệu.
Trên thực tế, châu Âu sắp trải qua mùa Đông đầu tiên với nguồn cung khí đốt từ Nga giảm. Những biện pháp trừng phạt của EU nhằm vào Nga đã gây ra những tác động lớn.
Giá khí đốt tại EU đã cao gấp 6 lần so với trung bình trong dài hạn. Giá điện tại thị trường châu Âu cao gấp 15 lần kể từ đầu năm 2021, còn hóa đơn khí đốt và điện của các hộ gia đình trên khắp châu Âu tăng gần gấp đôi so với một năm trước.
Giá năng lượng tăng khiến giá hàng hóa leo thang không ngừng, dẫn đến lạm phát cao ở nhiều nước EU, buộc các ngân hàng trung ương phải siết chặt chính sách tiền tệ, kéo theo nguy cơ suy thoái kinh tế.
Cuộc khủng hoảng năng lượng cũng đang dần “bào mòn” ngành công nghiệp châu Âu. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như nhôm, phân bón và hóa chất có nguy cơ chứng kiến làn sóng các doanh nghiệp chuyển hoạt động sản xuất vĩnh viễn sang những nơi có năng lượng giá rẻ, chẳng hạn như Mỹ.
[EU thống nhất mức giá trần khí đốt sẽ áp dụng từ giữa tháng 2 tới]
Một ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất chính là mùa lễ hội cuối năm ảm đạm ở châu Âu. Năm nay, nhà chức trách tại khắp các thành phố châu Âu đều phải đưa ra quy định về thời gian chiếu sáng để tiết kiệm năng lượng, giảm bớt những ánh đèn trang trí lung linh rực rỡ từng là biểu tượng tại nhiều kinh đô ánh sáng của “Lục địa Già.”
Để ứng phó với tình trạng thiếu hụt nguồn cung và giá năng lượng tăng cao, 27 nước EU trước đó đã nhất trí tăng cường tích trữ, phối hợp lấp đầy 85% các kho dự trữ khí đốt vào tháng 11, đồng thời cam kết giảm tiêu thụ khí đốt 15% trong những tháng mùa Đông.
Châu Âu cũng đã may mắn trải qua một mùa Thu ấm áp khác thường, không chỉ giúp lấp đầy kho dự trữ nhanh chóng mà còn làm giảm nhu cầu sưởi ấm. Giá năng lượng cao cũng khiến người dân thận trọng, giúp châu Âu tiêu thụ khí đốt trong 8 tháng đầu năm 2022 ít hơn 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, thời tiết lạnh giá trong mùa Đông có thể làm cạn kiệt các nguồn dự trữ trên một cách nhanh chóng và nguy cơ thiếu hụt khí đốt càng nghiêm trọng do nhu cầu sưởi ấm không thể kiểm soát.
Tại Đức, dù các cơ sở dự trữ khí đốt đã đạt 100% công suất chứa từ đầu mùa Đông, Cơ quan Mạng lưới Liên bang Đức mới đây đã phải cảnh báo về nguy cơ không đủ khí đốt để đáp ứng nhu cầu, do thời tiết giá lạnh bất thường trong tháng 12 đe dọa mục tiêu tiết kiệm 20% lượng tiêu thụ so với những năm trước.
Hơn thế nữa, mùa Đông 2022-2023 trôi qua hoàn toàn không đồng nghĩa với việc khủng hoảng năng lượng cũng kết thúc. Thậm chí, bức tranh năng lượng u ám được dự báo sẽ tồn tại dai dẳng.

Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), năm 2023, châu Âu có thể thiếu hụt 27 tỷ m3 khí đốt tự nhiên, tương đương gần 7% mức độ tiêu thụ hằng năm của khu vực. Có 3 nguy cơ có thể dẫn tới sự thiếu hụt này, gồm việc Nga có thể ngừng hoàn toàn dòng chảy khí đốt tới châu Âu, thời tiết băng giá bao trùm khắp Bắc Âu và thị trường LNG biến động mạnh nếu nền kinh tế Trung Quốc tăng tốc trở lại sau khi dỡ bỏ các biện pháp hạn chế phòng dịch COVID-19.
IEA cảnh báo rằng, “cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu ở mức sâu rộng và phức tạp chưa từng thấy này” sẽ khiến mọi thứ không thể quay lại như trước thời điểm xảy ra đại dịch COVID-19 cũng như xung đột Nga-Ukraine.
Không những vậy, hậu quả tàn khốc của cuộc chiến năng lượng giữa Nga và EU sẽ đè nặng lên người tiêu dùng, thậm chí còn tồi tệ hơn trong năm 2023. Những nền kinh tế dễ bị tổn thương tại châu Âu, các nước đang phát triển và các nước nhập khẩu năng lượng ròng và người nghèo trên thế giới sẽ chịu tác động nặng nề nhất.
Theo một mô hình phân tích của tạp chí The Economist (Anh), giá năng lượng thực tế tăng 10% sẽ gắn với tỷ lệ tử vong trong mùa Đông ở châu Âu tăng 0,6%, tương đương hơn 100.000 người tử vong.
Hiện một số ý kiến cho rằng khủng hoảng năng lượng tại châu Âu sẽ tồn tại cho đến khi cuộc xung đột Nga-Ukraine được giải quyết. Tuy nhiên, chuyên gia Per Lekander tại quỹ quản lý đầu tư Clean Energy Transition LLP (Anh) nhận định, xung đột không phải là tác nhân duy nhất gây ra khủng hoảng năng lượng hiện nay. Việc đầu tư dài hạn vào năng lượng tái tạo và từ bỏ điện hạt nhân, than đá cũng gây khó khăn cho thị trường năng lượng châu Âu, trong khi chi phí của lựa chọn thay thế nguồn cung từ Nga là LNG lại tăng hơn gấp đôi kể từ khi xảy ra xung đột.
Có thể nói, cuộc khủng hoảng năng lượng đang đặt ra một thách thức to lớn mà không quốc gia châu Âu nào có thể tự vượt qua một mình. Một thách thức lớn khác mà châu Âu phải đối mặt là “mức độ phối hợp và đoàn kết mà họ có thể duy trì” qua khủng hoảng.
Theo chuyên gia Agata Łoskot-Strachota từ Trung tâm Nghiên cứu phương Đông (Ba Lan), “đã có những vấn đề và sự bất bình đẳng ở châu Âu trong mùa Đông này, khi ngày càng có nhiều nước tăng cường các biện pháp bảo hộ.”
Theo bà, cuộc khủng hoảng năng lượng có thể kéo dài dai dẳng ít nhất 3 năm, nhất là sau khi các nước châu Âu đã sử dụng hết kho dự trữ được đổ đầy trong mùa Hè. Khi dự trữ khí đốt cạn kiệt, dự trữ tài chính của các quốc gia, các hộ gia đình cũng đã bị thu hẹp lại và giá năng lượng vẫn ở mức cao, mùa Đông tại châu Âu chắc chắn sẽ vô cùng khắc nghiệt./.
