THỊ TRƯỜNG VÀNG TRỤ VỮNG SAU QUYẾT ĐỊNH CỦA FED.
Cụ thể, trong các phiên giao dịch cuối ngày hôm qua, giá vàng giao ngay dường như không biến động so với phiên trước đó, đứng ở mức 1811,06 USD/oz, sau khi chạm mức cao nhất 5 tháng trong phiên trước đó, nhờ dữ liệu lạm phát thấp hơn dự báo của Mỹ làm gia tăng dự đoán rằng Fed sẽ giảm tốc lộ trình nâng lãi suất. Trong khi đó, giá vàng giao kỳ hạn của Mỹ hạ nhẹ 0,1%, xuống 1823,40 USD/oz.
Trong phiên sáng nay, thị trường Vàng tiếp tục dao động nhẹ với biên độ không quá 5 USD/oz. Hiện nay, mỗi oz Vàng được giao dịch trên sàn Thế Giới ở mức 1807,6 USD. Tức qui đổi tương đương theo tỉ giá ngoại tệ hiện hành thì mỗi lượng Vàng Thế Giới có giá qui đổi khoảng 51,73 triệu đồng (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước hiện nay, tính trên mỗi lượng Vàng, hai thị trường hiện chênh nhau khoảng 15,273 triệu đồng.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.
Đồng Dollar Mỹ: Chỉ số Dollar index, chỉ số so sánh sức mạnh đồng USD với rổ 6 đồng tiền đối tác chủ chốt của Mỹ, kết thúc phiên 14/12 giảm 0,39% xuống 103,622. Chỉ số Dollar Index đã giảm 9% kể từ khi đạt mức cao nhất trong 20 năm vào tháng 9 khi kỳ vọng về lãi suất của Mỹ – vốn đã cao sẽ tiếp tục tăng nữa thúc đẩy đồng đô la tăng giá – bắt đầu giảm bớt.
Chứng khoán Mỹ cũng giảm điểm sau một phiên giao dịch nhiều biến động do những thông điệp từ Fed khiến thị trường dự báo lãi suất sẽ duy trì đà tăng trong một thời gian dài.
Chỉ số công nghiệp Dow Jones kết thúc phiên giảm 142,29 điểm, tương đương 0,42%, xuống 33.966,35, chỉ số S&P 500 mất 24,33 điểm, tương đương 0,61%, xuống 3.995,32 và Nasdaq giảm 85,93 điểm, tương đương 0,76%, xuống 11.170,89.
Cả ba chỉ số trung bình chính ở Phố Wall đều đang trên đà giảm hàng năm đầu tiên kể từ năm 2018 và mức giảm phần trăm hàng năm lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Chiến lược tăng lãi suất mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới trong năm nay làm gia tăng lo ngại nền kinh tế toàn cầu có thể bị đẩy vào suy thoái và đè nặng lên các tài sản rủi ro như cổ phiếu trong năm nay.
Trước khi kỳ họp tháng 12 diễn ra, dữ liệu về lạm phát của Mỹ thấp hơn dự kiến đã khiến một số nhà đầu tư hy vọng rằng ông Powell sẽ có những phát ngôn ôn hòa trong cuộc họp báo sau kỳ họp. Tuy nhiên, thực tế đã không diễn ra như vậy. Trong các bình luận sau tuyên bố kết thúc cuộc họp, ông Powell cho biết còn quá sớm để nói về việc cắt giảm lãi suất của ngân hàng trung ương Mỹ và trọng tâm của Fed là thiết lập chính sách đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2% theo thời gian.
Bản tóm tắt hàng quý mới nhất của Fed về các dự báo kinh tế cho thấy các ngân hàng trung ương Mỹ dự kiến lãi suất chính sách – hiện nằm trong khoảng 4,25% đến 4,5% – sẽ ở mức 5,1% vào cuối năm tới, tăng từ mức 4,6% vào cuối tháng 9, theo ước tính trung bình của tất cả 19 nhà hoạch định chính sách của Fed.
“Đây là một tập hợp những thông điệp cho thấy Fed vẫn muốn thắt chặt chính sách nhiều hơn mức thị trường mong đợi. Các nhà hoạch định chính sách tiền tệ của Mỹ đã dập tắt hy vọng về việc nới lỏng bền vững các điều kiện tài chính khi duy trì những ngôn ngữ giống như trước đây, nói rằng ‘sự gia tăng liên tục (lãi suất)’ là cần thiết để đặt chính sách thắt chặt có một một nền tảng đủ vững vàng để hạn chế lạm phát,” Karl Schamotta, giám đốc chiến lược thị trường của Corpay nói.
Theo ông Corpay: “Bằng cách nâng dự báo lãi suất cuối kỳ lên 5,1% và tránh giảm mạnh kỳ vọng lãi suất dài hạn, các quan chức Fed đã không từ bỏ thông điệp ‘(lãi suất) tăng trong thời gian dài’ đã được nêu rõ trong nhiều tháng”. “Cân bằng lại, điều này cho thấy chúng ta sẽ cần xem thêm bằng chứng thuyết phục về việc giảm bớt áp lực lạm phát trước khi Fed ‘xoay trục’ theo bất kỳ cách nào.”
Về phía mình, ông Derek Halpenny, người phụ trách bộ phận nghiên cứu và thị trường toàn cầu của MUFG, cho biết: “Sự nghi ngờ của chúng tôi tại thời điểm này là Chủ tịch Powell đã mất công sức trong việc xoay chuyển động lực tăng lãi suất và bất kỳ lời hùng biện nào của ông về việc lãi suất sẽ tiếp tục tăng nhanh cũng khó có thể thu hút được nhiều sự chú ý khi đối mặt với chỉ số CPI yếu vừa được công bố gần đây”. Và Bất kỳ sức mạnh nào của đồng đô la Mỹ nhờ những phát ngôn về việc lãi suất sẽ tiếp tục tăng nhanh đều có thể đảo ngược nhanh chóng.”
Đồng euro kết thúc phiên vừa qua tăng 0,43% so với đồng USD lên 1,0674 USD/EUR. So với yen Nhật, USD cũng giảm 0,24% xuống 135,235 JPY/YSD. Đồng bảng Anh cũng tăng 0,54% so với đồng đô la lên 1,2429 USD/GBP.
Lạm phát hàng năm ở Anh hiện vẫn là 10,7%, giảm nhẹ so với mức dự đoán 10,9% nhưng vẫn ở mức rất cao đối với người tiêu dùng Anh.
Đồng rúp Nga trong phiên vừa qua giảm về sát mức 64 RUB/USD, thấp nhất trong vòng 2 tháng, do bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với dầu mỏ Nga. Theo đó, RUB có lúc xuống 63,925 RUB/USD, kết thúc phiên ở mức 63,25 RUB.
Nhân dân tệ Trung Quốc cũng giảm giá so với USD, giảm 0,2% xuống 6,945 CNY/USD.
Từ nay đến cuối tuần, các nhà giao dịch tiền tệ sẽ tập trung vào các cuộc họp của Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Trung ương Anh – được dự báo cũng sẽ nâng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản vào thứ Năm (15/12). Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ cũng họp vào thứ Năm.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.
Tỷ giá trung tâm cặp đồng tiền VND/USD được Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong ngày 15/12 ở mức 23.652 đồng, giảm 2 đồng so với mức công bố trước.
Tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại hôm nay vẫn giảm, nhưng mức điều chỉnh hẹp, có nơi đi ngang so với mức niêm yết trước.
Cụ thể, lúc 9 giờ 10 phút, Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.370 – 23.680 đồng/USD, giảm 20 đồng/USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
BIDV niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.590 – 23.670 đồng/USD, giảm 5 đồng/USD chiều mua vào, nhưng tăng 5 đồng/USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Techcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.359 – 23.670 đồng/USD, giảm 50 đồng/USD chiều mua vào và giảm 70 đồng/USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Eximbank niêm yết giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.420 – 23.670 đồng/USD, giảm mạnh 180 đồng/USD chiều mua, nhưng tăng 10 đồng/USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
Tỷ giá USD trên thị trường tự do sáng nay giảm mạnh so với phiên trước. Tại thị trường Hà Nội, lúc 9 giờ 15 phút, đồng USD giao dịch (mua – bán) ở quanh mức 23.998 – 24.109 đồng/USD, giảm 41 đồng/USD chiều mua và chiều bán ra so với phiên trước.
Tỷ giá đồng USD trên thị trường thế giới, đảo chiều giảm trong giỏ thanh toán quốc tế. Cụ thể, chỉ số Dollar-Index – đo lường sức mạnh đồng USD trong giỏ 6 đồng tiền chủ chốt sáng nay giảm 0,23% so với sáng qua về mức 103.800 điểm, vào lúc 9 giờ 15 phút (giờ Hà Nội).
Tỷ giá các ngoại tệ mạnh khác trong giỏ thanh toán quốc tế tại Vietcombank hôm nay tiếp tục diễn biến trái chiều nhau trong biên độ hẹp.
Cụ thể, tỷ giá đồng EUR tiếp tục tăng 14 đồng/EUR chiều mua và tăng 4 đồng/EUR chiều bán ra so với phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank quanh mức 24.485 – 25.856 đồng/EUR.
Tỷ giá đồng bảng Anh, đảo chiều tăng 78 đồng/GBP chiều mua và tăng 65 đồng/GPB chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 28.481 – 29.695 đồng/GBP.
Tỷ giá đồng france Thụy Sĩ, tăng 53 đồng/CHF chiều mua và tăng 32 đồng/CHF chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.830 – 25.888 đồng/CHF.
Tỷ giá đồng đô la Canada, giảm 26 đồng/CAD chiều mua và giảm 43 đồng/CAD chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank ở quanh mức 16.941 – 17.663 đồng/CAD.
Tỷ giá đô la Úc, tăng 38 đồng/AUD chiều mua và tăng 30 đồng/AUD chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 15.747 – 16.418 đồng/AUD.
Tỷ giá yên Nhật, đi ngang cả chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán quanh mốc 166 – 179 đồng/JPY.
CÁC ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG TRONG NGÀY.
1/ Fed quyết định tăng lãi suất chính sách thêm 50 điểm đúng như dự đoán.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào thứ 4 đã thông báo rằng họ đã tăng lãi suất chính sách, lãi suất quỹ liên bang, thêm 50 điểm cơ bản lên khoảng 4,25-4,5% sau cuộc họp chính sách tiền tệ tháng 12. Quyết định này được đưa ra phù hợp với dự đoán của thị trường.
Trong tuyên bố chính sách của mình, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nhắc lại rằng việc tăng lãi suất liên tục là điều phù hợp để đạt được ‘lập trường chính sách hạn chế đầy đủ’.
2/ Phát biểu của ngài Powell sau phiên họp FOMC tháng 12.
Thống đốc Jerome Powell: Dựa trên lịch sử, phải thật thận trọng đối với việc nới lỏng quá sớm
Thống đốc Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) Jerome Powell bình luận về triển vọng chính sách sau quyết định tăng lãi suất chính sách thêm 50 điểm cơ bản lên khoảng 4,25-4,5% của Cục Dự trữ Liên bang sau cuộc họp chính sách tháng 12. Ông cho rằng: “Tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản là vẫn còn lớn. Chúng tôi vẫn còn một số cách để tiếp tục nâng lãi suất. Dự đoán của chúng tôi không phải là một kế hoạch; không có gì chắc chắn về nền kinh tế. Các quyết định của chúng tôi sẽ phụ thuộc vào toàn bộ dữ liệu trong thời gian tới. Chúng tôi sẽ tiếp tục đưa ra quyết định thông qua cuộc họp. Chúng tôi đang thực hiện các bước mạnh mẽ nhầm kiểm soát tình trạng lạm phát. Dựa trên lịch sử, cần phải thật thận trọng đối với việc nới lỏng quá sớm. Chúng tôi vẫn tiếp tục để hoàn thành công việc của mình. Dữ liệu lạm phát được công bố trong tháng 10 và tháng 11 cho thấy giá cả giảm đáng hoan nghênh. Kỳ vọng lạm phát vẫn ổn định nhưng đó không phải là cơ sở để tự mãn. Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) tiếp tục nhận thấy rủi ro lạm phát đi lên. Các điều kiện tài chính dao động trong ngắn hạn, nhưng điều quan trọng là theo thời gian, chúng phản ánh sự hạn chế của chính sách. Chúng tôi đang nhìn thấy các tác động lên nhu cầu trong các lĩnh vực nhạy cảm với lãi suất, nhưng cần có thời gian để nhìn thấy tác động lên phần còn lại của nền kinh tế.”
“Chúng tôi đã quan sát, tác động đầy đủ của việc thắt chặt chính sách tiền tệ vẫn chưa được cảm nhận. Chúng ta còn nhiều việc phải làm. Không có sự ổn định về giá cả, không có thị trường lao động mạnh bền vững. Chúng tôi hy vọng các đợt tăng lãi suất đang diễn ra là phù hợp để có đủ sự hạn chế. Nền kinh tế Mỹ đã chậm lại đáng kể so với năm ngoái. Hoạt động trong lĩnh vực nhà ở đã suy yếu rõ. Lãi suất tăng cũng ảnh hưởng đến đầu tư cố định của doanh nghiệp. Thị trường lao động vẫn cực kỳ chặt chẽ. Mặc dù tỷ lệ việc làm giảm so với đầu năm nhưng thị trường lao động vẫn mất cân bằng”-Ông Powell nói thêm.
Pháp, Đức khẳng định không thiếu năng lượng và khí đốt trong mùa Đông
Ngày 14/12, Bộ trưởng Tài chính Pháp Bruno Le Maire lên tiếng trấn an rằng nước này sẽ tránh được kịch bản phải cắt điện luân phiên trong mùa Đông năm nay.
Bộ trưởng Le Maire cho biết đến tháng 1/2023, Pháp sẽ đưa 45 lò phản ứng hạt nhân vào hoạt động, tăng từ mức 41 lò hiện nay. Ông tin rằng điều này sẽ giúp Pháp tránh phải cắt điện trong mùa Đông dù thời tiết lạnh khắc nghiệt đang bao phủ toàn châu Âu.
Trong khi đó, giám đốc điều hành mạng lưới điện Pháp (RTE) Thomas Veyrenc cho biết dù tình hình nói chung vẫn cần cảnh giác nhưng với các bước đã thực hiện nhằm khuyến khích người dân giảm tiêu thụ điện thì Pháp có thể tránh kịch bản cắt điện. RTE cũng đã giảm xuất khẩu điện tới Anh, nhập khẩu nhiều hơn từ Bỉ và Italy trong bối cảnh nguồn cung năng lượng hạn hẹp ngay trong mùa Đông.
[IEA cảnh báo nguy cơ châu Âu thiếu khí đốt trong năm tới]Cũng trong ngày 14/12, cơ quan quản lý năng lượng Đức (Bundesnetzagentur) cho biết nước này hiện không có nguy cơ xảy ra tình trạng khẩn cấp về năng lượng nhưng kêu gọi các hộ gia đình và các doanh nghiệp tiếp tục các biện pháp tiết kiệm năng lượng.
Theo đó, Chủ tịch Bundesnetzagentur, ông Klaus Mueller, cho biết dự trữ khí đốt của Đức hiện ở mức 92,45%, cao hơn nhiều so với mức khẩn cấp và cao hơn mức trung bình của Liên minh châu Âu (EU) là 87,34%.
Với mức dự trữ này, ông Mueller ước tính Đức có thể đối phó với 1, 2 hoặc 3 tuần thời tiết lạnh và tiêu thụ điện tăng. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh cần chuẩn bị cho tháng 1 và tháng 2 cũng như dự tính xa hơn cho các mùa Đông những năm sau. Bundesnetzagentur kêu gọi tiết kiệm, giảm ít nhất là 20% tiêu thụ và không để mức dự trữ khí đốt giảm xuống dưới 40% vào tháng 2 để tránh thiếu hụt./.