THỊ TRƯỜNG VÀNG THẾ GIỚI TĂNG MẠNH, ĐỒNG DOLLAR MỸ LÙI VỀ MỨC 6 THÁNG TRƯỚC SAU DỮ LIỆU LẠM PHÁT TẠI MỸ.
Cụ thể, giá vàng phiên vừa qua tăng hơn 2% lên mức cao nhất trong hơn 5 tháng. Trong phiên giao dịch kết thúc ngày 13/12, giá vàng giao ngay tăng 2,1% lên 1817,64 USD/oz, đạt mức cao nhất kể từ ngày 30/6. Giá vàng kỳ hạn tháng 2/2023 tăng 2,2% lên 1830,90 USD/oz.
Hiện nay, thị trường Vàng đang có phiên điều chỉnh sau đà tăng mạnh. Hiện nay, trên thị trường Thế Giới, mỗi oz Vàng đang được giao dịch ở mức khoảng 1810 USD. Qui đổi tương đương theo tỷ giá hiện hành, mỗi lượng Vàng trên sàn Quốc Tế đang có giá khoảng 51,83 triệu đồng (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước trong phiên hiện nay, tính trên mỗi lượng Vàng, hai thị trường này hiện chênh nhau khoảng 15,18 triệu đồng.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.
Đồng Dollar Mỹ: Chỉ số Dollar Index, chỉ số so sánh sức mạnh đồng USD với rổ 6 đồng tiền đối tác chủ chốt của Mỹ, giảm 1,1% xuống 103,82. có lúc giảm xuống mức thấp nhất trong 6 tháng so với đồng euro sau khi dữ liệu lạm phát của Mỹ được công bố. Theo đó, euro đạt 1,0666 USD, mức cao nhất kể từ tháng 6/2022, lúc kết thúc ngày 13/12 theo giờ Việt Nam vẫn tăng 1,1% lên 1,0648 USD. Đồng tiền chung châu Âu đã tăng gần 8% từ đầu quý IV đến nay khi các nhà đầu tư đặt cược vào việc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) theo sát lộ trình tăng lãi suất mạnh mẽ.
So với đồng yen, USD cũng giảm xuống mức thấp nhất trong 1 tuần, là 134,67 JPY, và kết thúc phiên vẫn giảm 1,9% xuống 134,94 JPY.
Dữ liệu cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ tháng 11 tăng 0,1% so với tháng liền trước và tăng 7,1%. Tỷ lệ này thấp hơn so với lần lượt 0,3% và 7,3% trong cuộc khảo sát của Dow Jones, và càng thấp hơn so với mức tăng 7,7% của tháng 10/2022 do giá xăng và ô tô đã qua sử dụng giảm, dẫn tới mức tăng lạm phát thấp nhất trong vòng gần 1 năm. Dù vẫn cao hơn đáng kể so với mục tiêu 2% của Fed, nhưng đây là mức tăng yếu nhất kể từ tháng 11/2021. Loại trừ giá thực phẩm và năng lượng, CPI cơ bản trong tháng 11 tăng 0,2% so với tháng liền trước và tăng 6% so với cùng kỳ, trong khi dự báo ở mức tương ứng là tăng 0,3% và 6,1%. Con số này cũng thấp hơn mức tăng 6,3% của lạm phát cơ bản trong tháng 10.
Richard Flax, giám đốc đầu tư của Moneyfarm ở London, cho biết: “Đây là một tín hiệu tích cực cho thấy lạm phát đang dần giảm từ mức rất cao xuống mức mà các ngân hàng trung ương mong muốn”. “Trong một viễn cảnh dài hạn hơn, dữ liệu cho thấy rằng đó là một quá trình lâu dài nhưng vẫn chứng tỏ lạm phát sẽ bắt đầu giảm xuống mức mục tiêu 2% và điều đó sẽ là tin vui đối với các hộ gia đình và có lợi cho các tài sản rủi ro.”
Đồng USD cũng giảm mạnh so với những tiền tệ hàng hóa sau dữ liệu CPI. Theo đó, đô la Úc tăng 1,9% so với đồng bạc xanh lên 0,6879 USD; đô la New Zealand tăng 1,7% lên 0,6490 USD. So với đô la Canada, USD phiên vừa qua giảm 0,5% xuống còn 1,3555 CAD/USD.
Đồng bảng Anh cũng tăng trong phiên vừa qua, thêm 1,09% lên 1,2407 USD. Dữ liệu cho thấy nền kinh tế Vương quốc Anh phục hồi vào tháng 10 sau khi bị ảnh hưởng bởi kỳ nghỉ lễ tang của Nữ hoàng Elizabeth vào tháng trước, mặc dù vẫn cho thấy một triển vọng ảm đạm.
Đồng đô la Canada tăng 0,7% lên mức cao nhất trong vòng 1 tuần, là 1,3544 CAD/USD, hay 73,83 US cent/CAD, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 5 tháng 12, là 1,3523 CAD.
Fed nhìn chung được kỳ vọng sẽ đưa ra mức tăng lãi suất 50 điểm cơ bản (bps) sau một loạt các lần tăng 75 điểm cơ bản. Các nhà đầu tư rất muốn tìm hiểu xem liệu dự báo lãi suất cuối chu kỳ của Fed có vượt quá 5% hay không. Hiện tại, các quỹ liên bang đang nhận định rằng mức lãi suất cuối cùng – mốc mà Fed sẽ ngừng tăng lãi suất trong chu kỳ này – sẽ là 4,8%, vào tháng 5/2022, thấp hơn đáng kể so với mức dự báo vào cuối tháng 11 – là khoảng 5,1%. Tỷ lệ này phù hợp với ngụ ý gần đây của Fed rằng trần lãi suất có thể sẽ cao hơn mức 4,75%.
“Quan điểm đồng thuận là tỷ lệ lãi suất cao nhất có thể dưới 5% một chút mà chúng tôi tin rằng sẽ đạt được vào khoảng quý hai năm sau,” ông Flax của Moneyfarm cho biết.
“Chúng tôi sẽ đồng ý với quan điểm rằng thị trường đang kỳ vọng Fed sẽ thay đổi tương đối nhanh chóng từ việc tăng lãi suất cho đến nay sang cắt giảm lãi suất trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Quan điểm của chúng tôi là thị trường đang định giá khả năng rằng Fed duy trì lãi suất cao nhất lâu hơn một chút.”
Tiền tệ của các thị trường mới nổi cũng tăng trong phiên vừa qua sau khi lạm phát của Mỹ hạ nhiệt chút ít. Theo đó, đồng rand Nam Phi tăng 2%, peso của Mexico tăng khoảng 1%….
Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tăng nhẹ so với đồng đô la Mỹ khi các nhà đầu tư phớt lờ dữ liệu cho vay yếu kém của Trung Quốc và kỳ vọng vào sự phục hồi kinh tế khi các biện pháp kiềm chế COVID-19 được nới lỏng hơn nữa.
Đồng nhân dân tệ giao ngay trên thị trường nội địa kết thúc phiên tăng 9 pip lên 6,977 CNY, trong phiên có lúc đạt 6,9856 CNY.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.
Tỷ giá trung tâm cặp đồng tiền VND/USD được Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong ngày 14/12 ở mức 23.654 đồng, giảm 1 đồng so với mức công bố trước.
Tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại hôm nay đảo chiều giảm mạnh so với mức niêm yết trước.
Cụ thể, lúc 9 giờ 8 phút, Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.390 – 23.820 đồng/USD, giảm mạnh 270 đồng/USD chiều mua và giảm 120 đồng/USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
BIDV niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.595 – 23.665 đồng/USD, giảm mạnh 210 đồng/USD cả chiều mua vào và chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Techcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.409 – 23.740 đồng/USD, giảm 50 đồng/USD chiều mua vào và giảm 70 đồng/USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Eximbank niêm yết giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.600 – 23.660 đồng/USD, giảm mạnh 260 đồng/USD chiều mua và giảm 220 đồng/USD chiều bán so với mức niêm yết trước.
Tỷ giá USD trên thị trường tự do sáng nay diễn biến trái chiều nhau. Tại thị trường Hà Nội, lúc 8 giờ 55 phút, đồng USD giao dịch (mua – bán) ở quanh mức 24.039 – 24.109 đồng/USD, giảm 148 đồng/USD chiều mua vào và giảm 138 đồng/USD chiều bán ra so với phiên trước.
Tỷ giá đồng USD trên thị trường thế giới, đảo chiều giảm trong giỏ thanh toán quốc tế. Cụ thể, chỉ số Dollar-Index – đo lường sức mạnh đồng USD trong giỏ 6 đồng tiền chủ chốt sáng nay giảm 0,32% so với sáng qua về mức 104.040 điểm, vào lúc 9 giờ 30 phút (giờ Hà Nội).
Tỷ giá các ngoại tệ mạnh khác trong giỏ thanh toán quốc tế tại Vietcombank diễn biến trái chiều nhau trong biên độ hẹp.
Cụ thể, tỷ giá đồng EUR tiếp tục tăng 57 đồng/EUR chiều mua và tăng 62 đồng/EUR chiều bán ra so với phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank quanh mức 24.461 – 25.852 đồng/EUR.
Tỷ giá đồng bảng Anh, đảo chiều giảm nhẹ 7 đồng/GBP chiều mua, nhưng tăng 18 đồng/GPB chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 28.403 – 29.639 đồng/GBP.
Tỷ giá đồng france Thụy Sĩ, tăng 26 đồng/CHF chiều mua và tăng 30 đồng/CHF chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.777 – 25.856 đồng/CHF.
Tỷ giá đồng đô la Canada, giảm 21 đồng/CAD chiều mua và giảm 6 đồng/CAD chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán tại Vietcombank ở quanh mức 16.967 – 17.706 đồng/CAD.
Tỷ giá đô la Úc, tăng 81 đồng/AUD chiều mua và 98 đồng/AUD chiều bán so với chốt phiên trước, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 15.709 – 16.392 đồng/AUD.
Tỷ giá yên Nhật, tăng 2 đồng chiều mua và chiều bán so với chốt phiên trước, giao dịch mua – bán quanh mốc 166 – 179 đồng/JPY.
ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG TRONG NGÀY.
1/ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TẠI MỸ.
Lạm phát CPI hàng năm của Mỹ giảm xuống 7,1% trong tháng 11 so với mức dự kiến là 7,3%
Cục Thống kê Lao động Mỹ đã báo cáo vào thứ 3 rằng lạm phát ở Mỹ, được đo bằng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hàng năm, đã giảm xuống 7,1% vào tháng 11 từ mức 7,7% trong tháng 10. Dữ liệu này thấp hơn mức dự báo của thị trường là 7,3%.
Thông tin chi tiết khác của bản công bố cho thấy Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cơ bản hàng năm, không bao gồm giá năng lượng và thực phẩm dễ bay hơi, đã giảm xuống 6% từ mức 6,3% trong tháng 10. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cơ bản hàng tháng đạt mức 0,2%, so với mức ước tính của các nhà phân tích là 0,3%.
2/ Theo Một năm kinh tế nằm ngoài dự liệu của Fed – VnExpress Kinh doanh– Một năm kinh tế nằm ngoài dự liệu của Fed
Liên tiếp dự báo sai và phải liên tục nâng lãi để chống lạm phát khiến Fed rơi vào thế bị động trong năm 2022.
Trong bài phát biểu cuối cùng của năm 2021, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell nói: “Không ai biết chắc chắn nền kinh tế sẽ đi về đâu trong một năm hoặc hơn nữa kể từ bây giờ”.
Và ông đã đúng. Washington Post nhận định năm 2022, Powell và các đồng nghiệp của ông tại Fed đã dự báo sai nhiều vấn đề. Ban đầu, họ liên tục đánh giá thấp lạm phát đang kìm hãm kinh tế Mỹ và toàn cầu. Đến khi nhận ra mình đã chậm chân trong việc kiểm soát giá tiêu dùng, Fed mới vội vã tăng lãi suất với tốc độ nhanh nhất trong nhiều thập kỷ.
Cuối 2021, họ dự định tăng lãi suất 3 lần năm 2022, đưa lãi suất lên 0,9%. Nhưng thực tế là họ gần như sẽ kết thúc năm nay với 7 lần tăng, đưa lãi suất cơ bản lên 4,25-4,5%. Lý do được đưa ra là lạm phát cao bất ngờ, cuộc chiến ở Ukraine và thị trường lao động thắt chặt đáng kể.
Cứ sau vài tháng, Fed lại điều chỉnh mạnh dự báo về hướng đi của nền kinh tế, đồng thời hạ thấp kỳ vọng về các chỉ số quan trọng như lạm phát, tăng trưởng kinh tế và thị trường lao động.
Tuần này, các lãnh đạo Fed sẽ có cuộc họp chính sách cuối cùng của năm, dự kiến tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản (0,5%). Tốc độ này chậm hơn so với 4 lần nâng lãi gần đây.
Đồng thời, Fed cũng sẽ công bố loạt dự báo mới cho thấy lãi suất có thể tăng thêm bao nhiêu và duy trì ở mức cao trong bao lâu. Lãi suất cơ bản dự kiến lên trên 5% năm sau.
Claudia Sahm – nhà sáng lập Sahm Consulting kiêm cựu chuyên gia kinh tế của Fed nhận định trong vòng một năm kể từ khi bắt đầu tăng lãi năm nay, Fed sẽ tăng lãi suất thêm tổng cộng 5%. “Mức độ và tốc độ tăng lãi suất của Fed rất bất ngờ. Đây là việc rất bất thường, trừ khi buộc phải làm”, ông đánh giá.
Theo các lãnh đạo Fed, việc dự báo kinh tế đang ngày càng khó khăn. Chính sách tăng lãi suất cũng có độ trễ và không có gì chắc chắn về việc liệu nền kinh tế có đang hướng tới suy thoái hay tránh được trong gang tấc hay không.
Trong bài phát biểu tại Viện Brookings tháng trước, ông Powell thừa nhận Fed “không có kinh nghiệm” dự báo sự gián đoạn chuỗi cung ứng đã góp phần thúc đẩy lạm phát như thế nào.
Điều này có nghĩa Fed sẽ phải đánh giá toàn diện hơn những gì đang xảy ra trong nền kinh tế và xác định chính xác các điều kiện cần thiết để giảm lạm phát, thay vì chỉ dựa vào các mô hình sẵn có trước đây. “Chúng tôi sẽ tiếp tục đưa ra các dự báo, nhưng sẽ phải thận trọng và hoài nghi về các dự báo trong một thời gian. Điều đó đòi hỏi tăng cường quản trị rủi ro”, ông Powell nói.
Fed bắt đầu đưa ra các bản dự báo từ năm 2007 tại các cuộc họp vào tháng 3, tháng 6, tháng 9 và tháng 12 hàng năm. Chúng phản ánh ước tính trung bình (của 19 người trong Ủy ban Thị trường mở Liên bang thuộc Fed) về GDP, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất tham chiếu.
Các dự báo không mang tính ràng buộc và không nhằm xác định những gì Fed sẽ làm trong tương lai. Nhưng chúng là chìa khóa để truyền thông điệp của họ. Chúng được thiết kế để giảm thiểu những bất ngờ cho hệ thống tài chính.
Trong những thời điểm bình thường – không có đại dịch hay chiến tranh – các dự báo sẽ không thay đổi nhiều. Nhưng 2022 không phải là thời gian bình thường.
Những dự báo đầu tiên của năm được công bố vào tháng 3, khi Fed bắt đầu tăng lãi suất lần đầu kể từ đại dịch, thêm 25 điểm cơ bản. Vào thời điểm đó, họ cho rằng năm 2022 sẽ cần 7 lần tăng lãi suất, tăng so với 3 lần tuyên bố vài tháng trước. Lạm phát sẽ lên 4,3%, còn kinh tế sẽ tăng trưởng 2,8%.
Đến tháng 6, khủng hoảng Ukraine giáng đòn mạnh vào thị trường năng lượng toàn cầu và lạm phát vẫn đi lên. Fed tăng cường cuộc chiến chống lạm phát và cho biết lãi suất có thể tăng lên 3,4%, điều chỉnh dự báo lạm phát lên 5,2%. Tăng trưởng giảm xuống còn 1,7% và tỷ lệ thất nghiệp có thể giảm nhẹ.
Sang tháng 9, khi vẫn buộc phải tăng lãi, Fed dự kiến có suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và tăng trưởng kinh tế chỉ còn 0,2%. Họ cũng ra tín hiệu lãi suất sẽ vượt 4% và tiếp tục tăng trong năm tới. Đây là thay đổi lớn trong cách hoạch định chính sách của Fed.
Chuyên gia kinh tế Kaleb Nygaard cho rằng dù Fed nhận ra họ khởi đầu chậm chạp và cần bắt kịp, họ vẫn đánh giá thấp mức độ cần phải tăng lãi suất. “Fed không lường trước được mình sẽ phải đi đâu trong năm nay”, vị chuyên gia bình luận.
Vậy năm 2023 sẽ ra sao? Những người theo dõi Fed ngày càng cho rằng lãi suất sẽ lên trên 5% năm tới. Kể từ lần dự báo cuối cùng vào tháng 9 của Fed, bức tranh kinh tế đã trở nên trái chiều: lạm phát tăng tốc trong một tháng, sau đó hạ nhiệt vào tháng tiếp theo; thị trường lao động thì chậm lại một chút nhưng vẫn thắt chặt.
Có thể ở lần dự báo trong cuộc họp tuần này, Fed sẽ cho thấy một sự điều chỉnh khác. Tháng trước, Chủ tịch Fed Boston Susan Collins nói rằng các số liệu gần đây đã kéo dự báo về lãi suất lên cao, nhưng Fed vẫn chưa tăng đến mức đó.
Năm qua, nền kinh tế đã không đi theo cách mà Fed mong đợi. Nhưng thông điệp của Powell từ cuối năm 2021 vẫn đúng, và có thể vẫn là dự đoán cho năm 2023, thậm chí xa hơn.
“Khi nền kinh tế trở nên hoàn toàn khác với những gì Fed mong đợi, lãi suất cũng vậy. Sẽ không ai nói rằng không thể thay đổi chính sách chỉ vì chúng tôi đã dự báo như thế vào tháng 12”, Chủ tịch Fed từng nói vào năm ngoái.
Phiên An (theo Washington Post)
LỊCH KINH TẾ TRONG NGÀY.
Theo Lịch kinh tế | Tin tức tài chính | Giao dịch trên Mitrade
14/12/2022