THỊ TRƯỜNG VÀNG THẾ GIỚI CÙNG VỚI CHỈ SỐ DOLLAR INDEX BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỘNG TRONG BIÊN ĐỘ HẸP CHỜ THÔNG TIN CHÍNH THỨC TỪ CUỘC HỌP FOMC THÁNG 12.
Cụ thể, trong phiên giao dịch cuối ngày 12/12, hợp đồng vàng giao ngay giảm 0.93% xuống 1780 USD/oz, hợp đồng vàng tương lai tại Mỹ cũng sụt 1.04% còn 1791.8 USD/oz.
Trong phiên giao dịch hôm nay, thì trường Vàng Thế Giới cũng cho thấy sự biến động nhẹ trong biên độ không quá 3 USD/oz. Hiện nay, mỗi oz Vàng trên sàn giao dịch Quốc Tế đang có giá khoảng 1783 USD. Tức khi qui đổi tương đương theo tỉ giá hiện hành trong nước thì hiện nay mỗi lượng Vàng Thế Giới đang có giá khoảng 51,3 triệu đồng (chưa bao gồm thuế và phí vận chuyển). So sánh với giá Vàng trong nước hiện nay, tính trên mỗi lượng Vàng, hai thị trường này hiện chênh nhau khoảng 15,86 triệu đồng.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THẾ GIỚI.
Đồng Dollar Mỹ: Chỉ số Dollar Index, chỉ số đo lường sức mạnh đồng USD với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) đứng ở mức 104,73, giảm 0,08 điểm (tương đương 0,07%) so với phiên giao dịch trước. Hiện nay, chỉ số này ở ngưỡng 105,050 điểm nhờ sự điều chỉnh của thị trường Vàng. Hiện 1 euro đổi 1,057 USD. 1 bảng Anh đổi 1,229 USD. 1 USD đổi 136,99 yên. 1 USD đổi 1,367 đô la Canada. 1 đô la Úc đổi 0,676 USD, 1 USD đổi 0,933 France Thụy Sĩ.
Tỷ giá USD hôm nay không có nhiều thay đổi. Trong tuần này, thị trường tài chính chờ đợi các thông tin quan trọng sắp được công bố, bởi các thông tin này được dự báo sẽ tác động mạnh đến giá các đồng tiền tệ nói chung.
Đó là dữ liệu chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 của Mỹ dự kiến sẽ được công bố vào hôm nay (13/12) giờ địa phương. Các nhà phân tích cảnh báo rằng lạm phát có thể sẽ vẫn tăng cao. Thông tin này sẽ được nhà đầu tư theo dõi chặt chẽ do bất kỳ sự tăng – giảm bất ngờ nào cũng có khả năng gây ra một đợt bán tháo USD và ảnh hưởng đến cuộc họp thiết lập chính sách cuối cùng trong năm của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Kế tiếp là thông tin từ cuộc họp về chính sách của Fed kéo dài hai ngày 13 và 14/12 và sau đó mức tăng lãi suất sẽ được công bố vào cuối ngày 14/12 giờ địa phương. Hiện nhiều nhà đầu tư dự báo cơ quan này sẽ tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản, thấp hơn mức tăng 75 điểm cơ bản đã áp dụng 4 lần liên tiếp trước đó.
Dù vậy, vẫn có nhiều lo ngại bởi bất chấp tốc độ tăng lãi suất mạnh mẽ của Fed, lạm phát của Mỹ vẫn ở mức 7,7% trong tháng 10 trong khi tỷ lệ việc làm vẫn tăng mạnh. Những nhân tố này khiến thị trường lo ngại rằng Fed sẽ kéo dài chiến dịch tăng lãi suất.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TRONG NƯỚC.
Trong phiên đầu sáng 13/12, tỷ giá trung tâm USD/VND tại Ngân hàng Nhà nước được niêm yết ở mức 23.655 VND mỗi USD, giảm 2 VND mỗi USD so với phiên giao dịch trước. Tỷ giá tham khảo đô la Mỹ tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước giữ ở mức 24.830 VND mỗi USD (bán ra).
Tỷ giá USD trong các Ngân hàng thương mại hôm nay hầu hết được điều chỉnh theo chiều tăng giá, chỉ có ngân hàng SHBank giảm giá. Cụ thể, rạng sáng nay, tại Ngân hàng Vietcombank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.530 – 23.840 VND mỗi USD, tăng 140 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
Ngân hàng BIDV giao dịch mua – bán USD ở mức 23.635 – 23.915 VND mỗi USD, cũng tăng 200 VND mỗi USD chiều mua vào và chiều bán ra. Ngân hàng ACB niêm yết giá USD ở mức 23.400 – 23.900 VND mỗi USD (mua – bán), tăng 100 đồng/USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
Cùng thời điểm trên, Ngân hàng Vietinbank niêm yết giao dịch mua – bán ở quanh mức 23.570 – 23.970 VND mỗi USD, cũng tăng 180 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán. Tại TPBank niêm yết giá mua – bán USD ở mức 23.510 – 24.100 VND mỗi USD, tăng 230 VND mỗi USD chiều mua và chiều bán so với mức niêm yết trước.
Tại Ngân hàng SHBBank, giá mua – bán USD giao dịch ở mức 23.553 – 23.800VND mỗi USD, giảm 2 VND mỗi USD chiều mua và giảm 300 VND mỗi USD chiều bán. Ngân hàng Techcombank, niêm yết giá USD ở mức 23.618 – 23.940 VND mỗi USD (mua – bán), tăng 209 VND mỗi USD chiều mua vào và tăng 200 VND mỗi USD chiều bán ra so với mức niêm yết trước.
Sáng nay, các ngoại tệ mạnh trong giỏ thanh toán quốc tế cũng được điều chỉnh theo chiều tăng giá. Cụ thể:
- Tỷ giá đồng Euro tăng 54 VND mỗi EUR chiều mua và tăng 57 VND mỗi EUR chiều bán so với mức niêm yết trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.304 – 25.664 VND mỗi EUR.
- Tỷ giá đồng bảng Anh cũng tăng 149 VND mỗi GBP chiều mua và tăng 155 VND mỗi GBP chiều bán, niêm yết tại Vietcombank giao dịch mua – bán quanh mốc 28.239 – 29.442 VND mỗi GBP.
- Tỷ giá đồng France Thụy Sĩ tăng 99 VND mỗi CHF chiều mua và tăng 103 VND mỗi CHF chiều bán so với mức niêm yết trước, giao dịch tại Vietcombank mua – bán ở quanh mức 24.687 – 25.739 VND mỗi CHF.
- Tỷ giá đồng đô la Canada tăng 82 VND mỗi CAD chiều mua và tăng 85 VND mỗi CAD chiều bán, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mức 16.926 – 17.647 VND mỗi CAD.
- Tỷ giá đô la Úc, cũng tăng 129 VND mỗi AUD chiều mua vào và tăng 135 VND mỗi CAD chiều bán ra so với mức niêm yết trước, tại Vietcombank giao dịch cùng thời điểm trên mua – bán ở quanh mức 15.633 – 16.299 VND mỗi AUD.
- Tỷ giá Yên Nhật hôm nay đi ngang chiều mua và chiều bán, tại Vietcombank giao dịch mua – bán ở quanh mốc 168 – 178 VND mỗi JPY.
CÁC ĐIỂM TIN QUAN TRỌNG TRONG NGÀY.
1/ Theo Quốc hội Mỹ thúc đẩy thông qua gói ngân sách năm 2023 | Châu Mỹ | Vietnam+ (VietnamPlus)– Quốc hội Mỹ thúc đẩy thông qua gói ngân sách năm 2023
Quốc hội Mỹ đang phải đối mặt với hạn chót vào ngày 16/12 để thông qua dự luật chuẩn chi ngân sách cho chính phủ liên bang trong năm tài chính 2023, trong bối cảnh đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa đang tranh cãi về các chi tiết của dự luật này.
Các nhà lập pháp đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa đang phải đối mặt với thời gian gấp gáp quen thuộc đối với hai dự luật cần phải thông qua là dự luật ngân sách tổng thể cho chính phủ và Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng hàng năm (NDAA).
Trong số hai dự luật, NDAA với mức ngân sách kỷ lục 858 tỷ USD đang tiến gần hơn đến việc được thông qua khi dự luật này đã được Hạ viện Mỹ thông qua vào ngày 8/12.
Tuy nhiên, dự luật ngân sách tổng thể cho chính phủ liên bang với mức ngân sách khoảng 1.500 tỷ USD lại là một câu chuyện khác.
[Thâm hụt ngân sách Mỹ giảm 1.700 tỷ trong 9 tháng của tài khóa 2022]Trong khi các nhà lãnh đạo Quốc hội Mỹ và Nhà Trắng đang tranh cãi để đạt được thỏa thuận về gói tài trợ tổng thể của chính phủ, họ cảnh báo rằng Quốc hội gần như chắc chắn sẽ phải thông qua một giải pháp ngắn hạn để ngăn chặn việc đóng cửa chính phủ.
Mặc dù hy vọng sẽ thông qua được dự luật ngân sách tổng thể cho chính phủ liên bang trong phiên họp khẩn cấp vào 16/12 tới, nhưng các nhà lập pháp Mỹ đang lên kế hoạch để trì hoãn việc này cho đến ngày 23/12.
Hai đảng hiện vẫn chưa thống nhất được các con số chi tiêu hàng đầu cho dự luật tổng thể được thiết lập để tài trợ cho chính phủ liên bang trong năm tài chính 2023 (kết thúc vào tháng 9/2023).
Thượng nghị sỹ Richard Shelby, Phó Chủ tịch Ủy ban Phân bổ Ngân sách Thượng viện, cho biết hiện tại, khoản chênh lệch 26 tỷ USD dành cho chi tiêu trong nước đang chia rẽ hai đảng. Đây chỉ là một phần nhỏ trong gói 1.500 tỷ USD. Tuy nhiên, trong khi Đảng Dân chủ muốn cân bằng giữa chi tiêu trong nước và quốc phòng, thì Đảng Cộng hòa đang tìm cách giảm con số này.
Trong khi các thành viên Đảng Dân chủ tại Thượng viện chuẩn bị công bố dự luật tài trợ của riêng họ trong năm tài chính vào ngày 12/12 (theo giờ địa phương) với hy vọng chấm dứt tình trạng bế tắc, thì Quốc hội Mỹ có khả năng sẽ thông qua gói chi tiêu tạm thời trong một tuần để giúp các nhà lập pháp có thêm thời gian để đạt được thỏa thuận – và kéo dài thời hạn thông qua gói ngân sách tổng thể cho đến ngày 23/12./.
Economist cho rằng mức độ quan tâm với thúc đẩy kinh tế của phương Tây giảm dần trong thập niên qua, để tập trung hơn cho an sinh xã hội.
Tăng trưởng kinh tế yếu đang dần hiển hiện ở các nước phương Tây giàu có. Năm 2019, GDP các nền kinh tế tiên tiến tăng trưởng dưới 2%. Vài chỉ số cho thấy năng suất ở các nước giàu đang chậm lại và có thể suy giảm.
Các dự báo chính thức đến năm 2027 chỉ ra tốc độ tăng trưởng GDP bình quân ở các nước giàu sẽ dưới 1,5% một năm. Ở một số nơi, như Canada và Thụy Sĩ, các con số này gần bằng không.
Nguyên nhân được giới phân tích cho là các thành quả từ những đột phá về chính sách, như mở cửa thị trường lao động cho phụ nữ, dân chủ hóa giáo dục đại học, cho đến đổi mới sáng tạo như ôtô, Internet đã dần được khai thác hết. Trong khi đó, dân số phương Tây đang già nhanh chóng.
Vấn đề này vẫn khắc phục được bằng cách thúc đẩy toàn cầu hóa. Các nhà hoạch định chính sách có thể cải cách quy hoạch để giảm chi phí nhà ở, chào đón người nhập cư để bổ sung công nhân trẻ. Tất cả những biện pháp này sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng.
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ tăng trưởng kinh tế giờ không còn được ưa chuộng quá mức. Theo phân tích dữ liệu của The Economist từ, các đảng phái chính trị trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) chỉ tập trung vào tăng trưởng với mức độ bằng nửa những năm 1980.
Ví dụ, các chính trị gia hiện ít tán dương lợi ích của thị trường tự do hơn so với những người tiền nhiệm. Họ thậm chí thể hiện ý muốn chống tăng trưởng, mong chính phủ kiểm soát hơn nền kinh tế.
Tại Anh, vào thập niên 70, ngân sách trung bình của nước này cho cải cách thuế tương đương 2% GDP. Đến cuối những năm 2010, các chính sách chỉ còn có quy mô bằng nửa.
Một bài báo xuất bản vào năm 2020 của Alberto Alesina – nhà kinh tế học quá cố tại Đại học Harvard, và các đồng nghiệp tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Đại học Georgetown đã đo lường tầm quan trọng của các thay đổi chính sách. Trong những năm 1980 và 1990, chính trị gia ở các nền kinh tế tiên tiến đã thực hiện rất nhiều biện pháp giúp kinh tế đi lên. Nhưng đến những năm 2010, các cải cách trên thực tế đã đình trệ.
Phân tích của The Economist với dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới cho thấy tiến độ gần đây còn chậm hơn, thậm chí có thể bị đảo ngược. Mỹ ban hành 12.000 quy định mới năm 2021. Từ năm 2010 đến 2020, rào cản thuế quan của các nước giàu với hàng nhập khẩu tăng gấp đôi. Anh thực hiện Brexit. Các quốc gia khác quay lưng lại với người nhập cư. Năm 2007, gần 6 triệu người di cư sang các nước giàu. Con số này giảm xuống 4 triệu năm 2019.
Chính phủ phương Tây cũng ít thân thiện hơn với các công trình xây dựng mới, dù là nhà ở hay cơ sở hạ tầng. Ba nhà kinh tế Knut Are Aastveit, Bruno Albuquerque và André Anundsen tìm ra rằng độ linh hoạt của nguồn cung nhà ở Mỹ đã giảm kể từ thời kỳ bùng nổ những năm 2000.
Thay vào đó, các chính phủ phương Tây đang chi tiêu nhiều hơn cho phúc lợi, như lương hưu và đặc biệt là chăm sóc sức khỏe. Theo một báo cáo năm 2019, chi tiêu y tế cho mỗi người trong OECD sẽ tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 3% và đạt 10% GDP vào năm 2030, tăng từ mức 9% năm 2018.
Chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe và lương hưu là điều tốt. Nhưng tài chính cho việc này đòi hỏi thuế cao hơn hoặc cắt giảm chi tiêu ở nơi khác. Kể từ đầu những năm 1980, chi tiêu của các chính phủ trong OECD cho R&D đã giảm khoảng một phần ba.
Trong thời kỳ khủng hoảng, các chính trị gia còn quan tâm đến việc ngăn những điều tồi tệ xảy ra với mọi người. Hệ thống bảo lãnh tín dụng khổng lồ, lệnh cấm trục xuất và xóa nợ được đưa ra trong đại dịch đã giúp họ tránh được các vụ phá sản và vỡ nợ. Tuy nhiên, giải pháp này cũng có hạn chế.
Ví dụ, chính phủ Mỹ đã bảo lãnh cho những khoản nợ tiềm ẩn khổng lồ và ít nhiều chịu áp lực với các khoản nợ trị giá gấp 6 lần GDP. Năm nay, các chính phủ châu Âu cũng phải hỗ trợ tài chính cho các hộ gia đình và doanh nghiệp trong cuộc khủng hoảng năng lượng. Ngay cả Đức, thường là quốc gia chi tiêu kỷ luật nhất châu Âu, cũng phân bổ khoản cứu trợ bổ sung trị giá 7% GDP cho mục đích này.
Không ai vui mừng khi một công ty phá sản hoặc ai đó rơi vào cảnh nghèo đói. Nhưng cứu trợ khiến các nền kinh tế kém thích nghi hơn, hạn chế tăng trưởng bằng khi ngăn chặn việc các nguồn lực chuyển từ nơi sử dụng không hiệu quả sang nơi dùng hiệu quả.
Đã có bằng chứng cho thấy sự trợ giúp tài chính trong thời kỳ đại dịch tạo ra nhiều “công ty zombie” hơn – vẫn đang hoạt động nhưng tạo ra ít giá trị kinh tế. Các khoản nợ tiềm ẩn khổng lồ của chính phủ cũng có thể dẫn đến xu hướng đánh thuế cao hơn.
Vậy tại sao phương Tây bớt mặn mà với tăng trưởng? Câu trả lời có thể liên quan đến dân số già. Những người không làm việc hoặc gần hết tuổi lao động có xu hướng ít quan tâm đến việc trở nên giàu có hơn. Họ phản đối những thứ chỉ mang lại lợi ích sau khi họ chết, như nhập cư hoặc xây dựng nhà cửa.
Thay vào đó, họ sẽ ủng hộ những thứ mang lại lợi ích trực tiếp cho bản thân như chăm sóc sức khỏe. Tỷ lệ cử tri đi bầu cao tuổi lại có xu hướng cao. Vì vậy, quan điểm của họ có trọng lượng.
Tuy nhiên, dân số phương Tây đã già đi trong nhiều thập kỷ qua, kể cả trong thời kỳ cải cách kinh tế những năm 1980 và 1990. Do đó, sự thay đổi trong môi trường mà chính sách có thể lý giải phần nào cho tình hình hiện tại.
Với sự xuất hiện của mạng xã hội và tin tức liên tục 24 giờ, việc thực hiện những cải cách khó khăn trở nên dễ dàng hơn. Ngày trước, những người thất bại từ một cuộc vận động chính sách thường không có nhiều lựa chọn ngoài việc chịu đựng trong im lặng. Nhưng giờ đây, họ có nhiều cách hơn để phàn nàn. Kết quả là, các nhà hoạch định chính sách có nhiều động lực hơn để hạn chế lượng người thất bại.
Ngoài ra, mức nợ cao cũng hạn chế khả năng của các nhà hoạch định chính sách. Tại nhóm G7, nợ tư nhân đã tăng tương đương 30% GDP kể từ năm 2000. Ngay cả sự sụt giảm nhỏ trong dòng tiền cũng có thể khiến việc trả nợ trở nên khó khăn hơn. Điều này có nghĩa các chính trị gia sẽ nhanh chóng can thiệp khi có vấn đề xảy ra. Trọng tâm của họ là tránh lặp lại cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009 thay vì chấp nhận nỗi đau hôm nay để tương lai tươi sáng hơn.
Theo The Economist, điều gì sẽ thúc đẩy phương Tây đi theo một hướng mới hiện vẫn chưa rõ ràng. Vẫn chưa có dấu hiệu của một sự thay đổi. Thế giới có thể phải chờ một cuộc khủng hoảng tài chính nữa, hoặc chờ đến khi thế hệ baby boomers (sinh từ 1946 đến năm 1964) không còn. Tất cả hiện vẫn là dấu chấm hỏi.
Phiên An (theo The Economist)
LỊCH KINH TẾ HÔM NAY.
13/12/2022
Theo Lịch kinh tế | Tin tức tài chính | Giao dịch trên Mitrade